Bản án về tranh chấp hụi và bão lãnh hụi số 182/2020/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 182/2020/DS-PT NGÀY 26/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HỤI VÀ BÃO LÃNH HỤI

Ngày 26 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 180/2020/TLPT-DS ngày 06 tháng 7 năm 2020 về việc tranh chấp hụi và bảo lãnh hụi.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 19/2020/DS-ST ngày 15 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 151/2020/QĐ-PT ngày 16 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Huỳnh Út L, sinh năm 1966 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp C, xã N, huyện P, tỉnh C ..

- Bị đơn:

1. Ông Phạm Văn T1, sinh năm 1954 (Vắng mặt).

2. Bà Trần Thị T2, sinh năm 1955 (Vắng mặt) Cùng địa chỉ: Ấp Đ, xã T, huyện P, tỉnh C ..

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Huỳnh Thị Kim H (Vắng mặt) Địa chỉ: Khóm 2, Phường 8, thành phố C, tỉnh C ..

2. Anh Phạm Văn D (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Đ, xã T, huyện P, tỉnh C ..

- Người kháng cáo: Ông Huỳnh Út L, là nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo ông Huỳnh Út L trình bày:

Ngày 30/4/2014, ông Út Lcó mở dây hụi 1.000.000 đồng, gồm 45 phần, mỗi tháng khui 01 lần, ông T1 và bà T2 tham gia 10 phần. Ông T1 và bà T2 đã hốt hết 10 phần hụi; ông T1 và bà T2 có đóng lại hụi chết 33 lần, còn nợ 12 lần hụi chết với tổng số tiền phải đóng là 120.000.000 đồng. Sau đó, ông T1 và bà T2 có trả 50.000.000 đồng, còn nợ lại 70.000.000 đồng. Do đó, ông Út Lkhởi kiện yêu cầu ông T1 và bà T2 phải trả cho ông Út Lsố tiền còn nợ là 70.000.000 đồng.

Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Út Lxác định là ông T1 và bà T2 bảo lãnh 10 phần hụi cho chị Huỳnh Thị Kim H và anh Phạm Văn D. Do chị H và anh D không thực hiện nghĩa vụ thanh toán hụi chết nên ông T1 và bà T2 phải có nghĩa vụ thanh toán cả 10 phần hụi cho ông.

- Theo ông Phạm Văn T1 trình bày:

Ngày 30/4/2014, ông Út Lmở dây hụi 1.000.000 đồng, gồm 45 phần, mỗi tháng khui 01 lần, ông và bà T2 tham gia 01 phần, đứng tên hụi viên “Bảy Thịnh” tại số thứ tự 15, phần hụi này đã mãn và thanh toán xong, không có tranh chấp.

Đối với 10 phần hụi mà ông Út Lkhởi kiện ông và bà T2 là do con trai tên Phạm Văn D và con dâu tên Huỳnh Thị Kim H trực tiếp tham gia giao dịch. Do Hoàng và Đen thường ở thành phố Cà Mau nên bà T2 có đi khui hụi và nhận tiền hốt hụi thay Hoàng và Đen. Sau đó, Hoàng và Đen có đóng lại 33 lần, còn nợ 12 lần hụi chết. Đã qua ông và bà T2 có trả 50.000.000 đồng cho ông Út Lthay Hoàng và Đen. Nay ông Út Lyêu cầu ông và bà T2 phải trả cho ông Út Lsố tiền còn nợ là 70.000.000 đồng, ông không thống nhất, mà việc này ông L phải khởi kiện Hoàng và Đen đòi nợ hụi mới đúng.

Tại phiên toà sơ thẩm, ông T1 trình bày: Việc giao dịch hụi là do chị H và anh D trực tiếp giao dịch với ông Út L. Nhưng do tham gia đến 10 phần, nên ông Út Lcó thoả thuận là nhờ ông đứng tên hụi viên là “Bảy Thịnh” 03 phần hụi tại số thứ tự 16, 17 và 18 trong tờ giao kèo mượn vốn làm ăn, để tránh sự không đồng ý của các hụi viên khác trong dây hụi, vì chị H và anh D tham gia đến 10 phần là quá nhiều. Phía ông và bà T2 cũng thừa nhận có chịu trách nhiệm bảo lãnh cho Hoàng và Đen đối với 03 phần hụi đứng tên hụi viên “Bảy Thịnh” nêu trên.

- Theo bà Trần Thị T2 trình bày:

Bà T2 thống nhất ý kiến trình bày của ông T1. Bà T2 không đồng ý trả số tiền 70.000.000 đồng theo yêu cầu khởi kiện của ông Út L.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số:19/2020/DS-ST ngày 15 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân quyết định:

Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông Huỳnh Út L về việc ông Huỳnh Út L khởi kiện yêu cầu ông Phạm Văn T1 và bà Trần Thị T2 phải trả cho ông Huỳnh Út L số tiền nợ hụi 70.000.000 đồng.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 01/6/2020, ông Huỳnh Út L có đơn kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Huỳnh Út L giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Phần tranh luận tại phiên toà ông Út Lphát biểu: Ông T1 và bà T2 là người bảo lãnh cả 10 phần hụi của anh D và chị H tham gia. Tổng số tiền hụi chết anh D và chị H phải đóng lại là 120.000.000 đồng; ông Thiệp và và Thiếp đã thanh toán được 50.000.000 đồng, còn lại 70.000.000 đồng yêu cầu buộc ông T1 và bà T2 phải thanh toán cho ông.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của ông Huỳnh Út L, giữ nguyên bản án sơ thẩm .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Xét kháng cáo của ông Huỳnh Út L, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Ngày 30/4/2014, ông Út Lcó mở dây hụi loại hụi 1.000.000 đồng, gồm 45 phần, mỗi tháng khui hụi 1 lần, do ông Út L làm chủ hụi. Việc giao dịch hụi giữa ông Út Lvới các hụi viên được xác lập bằng Tờ giao kèo mượn vốn làm ăn, lập ngày 30/4/2014, có xác nhận của Trưởng ấp Cái Đôi Nhỏ A ngày 04/11/2014 và chứng thực của Ủy ban nhân dân xã Nguyễn Việt Khái ngày 25/11/2014.

[2] Trong dây hụi này, ông Phạm Văn T1 và bà Trần Thị T2 tham gia 01 phần (theo số thứ tự 15 của dây hụi), chị H và anh D tham gia 10 phần (theo số thứ tự từ 16 đến 25 của dây hụi).

[2.1] Đối với phần hụi ông T1 và bà T2 tham gia, giữa ông Út Lvới ông T1, bà T2 thống nhất xác định ông T1 và bà T2 đã hốt hụi và đóng lại hụi chết xong, không có tranh chấp; do đó, cấp sơ thẩm không xem xét nên cấp phúc thẩm không đặt ra xem xét.

[2.2] Còn lại 10 phần hụi chị H và anh D tham gia, chị H và anh D đã hốt hết 10 phần hụi; chị H và anh D nợ tiền hụi chết phải đóng cho ông Út L là 12 kỳ bằng 120.000.000 đồng. Ông T1 và bà T2 đã trả cho ông Út L thay cho chị H và anh D 50.000.000 đồng, còn nợ lại 70.000.000 đồng. Ông Út Lcho rằng do ông T1 và bà T2 là người bảo lãnh việc chơi hụi của chị H và anh D đối với 10 phần hụi mà chị H và anh D tham gia, nên yêu cầu ông T1 và bà T2 phải trả cho ông Út Lsố tiền 70.000.000 đồng mà chị H và anh D còn nợ. Ông T1 và bà T2 cho rằng chỉ bảo lãnh cho chị H và anh D 03 phần hụi và đã đóng đầy đủ tiền hụi chết của 03 phần hụi mà ông bà bảo lãnh, số tiền hụi chết phải đóng còn nợ lại 70.000.000 đồng là trách nhiệm của chị H và anh D; ông T1 và bà T2 không đồng ý trả cho ông Út L.

[3] Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Út L, ông T1 và bà T2 đều thống nhất xác định 10 phần hụi nêu trên là do anh D và chị H tham gia. Tuy nhiên, ông Út Lcho rằng ông T1 và bà T2 bảo lãnh cho anh D và chị H cả 10 phần hụi nêu trên, nhưng không được ông T1 và bà T2 thừa nhận; ông T1 và bà T2 chỉ thừa nhận có bảo lãnh cho anh D và chị H 03 phần hụi. Đối chiếu với danh sách lập kèm theo tờ giao kèo mượn vốn làm ăn lập ngày 30/4//2014 thể hiện anh D và chị H tham gia 10 phần hụi có số thứ tự từ 16 đến 25; trong đó: ông T1 chỉ đứng tên 03 phần tại số thứ tự 16, 17 và 18; anh D đứng tên 04 phần tại số thứ tự 19, 20, 21 và 22; chị H đứng tên 03 phần tại số thứ tự 23, 24 và 25. Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm cũng như tại phiên toà phúc thẩm, ông Út Lcũng không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh ông T1 và bà T2 bảo lãnh toàn bộ 10 phần hụi mà anh D và chị H tham gia. Đối với việc ông T1 và bà T2 đã thanh toán cho ông Út Lsố tiền 50.000.000 đồng, vượt hơn số tiền phải thanh toán của 03 phần hụi bảo lãnh là 14.000.000 đồng cũng chưa đủ căn cứ để kết luận ông T1 và bà T2 bảo lãnh toàn bộ 10 phần hụi mà anh D và chị H tham gia như ông Út L đặt ra. Do đó, án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Út Llà có căn cứ.

[4] Đối với 07 phần hụi do chị H và anh D đứng tên tham gia, nếu chưa thanh toán xong cho ông Út Lthì giữa ông Út Lvới chị H và anh D có quyền thỏa thuận với nhau việc thanh toán; nếu có tranh chấp thì ông Út Lcó quyền khởi kiện chị H và anh D bằng vụ án khác.

[5] Đối với số tiền 14.000.000 đồng mà ông T1 và bà T2 đã trả cho ông Út Lvượt phạm vi bảo lãnh, nhưng do ông T1 và bà T2 không có yêu cầu, không có tranh chấp gì với ông Út L, chị H và anh D nên không đặt ra xem xét.

[6] Từ phân tích trên, cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông Huỳnh Út L, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa là phù hợp.

[7] Án phí dân sự phúc thẩm ông Út Lphải chịu quy định pháp luật.

[8] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên không đặt ra xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận kháng cáo của ông Huỳnh Út L.

Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 19/2020/DS-ST ngày 15 tháng 5 năm 2020 của Toà án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

Tuyên xử:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Út L về việc yêu cầu ông Phạm Văn T1 và bà Trần Thị T2 phải trả cho ông Út Lsố tiền nợ hụi 70.000.000 đồng.

Án phí dân sự sơ thẩm ông Út L phải chịu số tiền 3.500.000 đồng. Ông Út L đã dự nộp 1.750.000 đồng theo tại biên lai thu tiền số 0007137 ngày 21/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, đối trừ ông Út Lcòn phải tiếp 1.750.000 đồng.

Án phí dân sự phúc thẩm ông Út L phải chịu số tiền 300.000 đồng. Ngày 01/6/2020 ông Út Lđã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0011650 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân được đối từ chuyển thu án phí.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hụi và bão lãnh hụi số 182/2020/DS-PT

Số hiệu:182/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:26/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về