Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 01/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 01/2022/DS-ST NGÀY 23/02/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 23 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 16/2021/TLST-DS ngày 18/10/2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2022/QĐXXST-DS ngày 25/01/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Hồng H, sinh năm 1974, có mặt; Địa chỉ: Thôn H, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn.

- Bị đơn: Bà Đỗ Hồng V, sinh năm 1973, vắng mặt;

Địa chỉ: Số nhà N, khu H, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lạng Sơn.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Trần Xuân T, sinh năm 1968, vắng mặt.

Địa chỉ: Số nhà N, khu H, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lạng Sơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Hồng H trình bày:

Do nhu cầu thường xuyên cần đến tiền đóng hàng để trả cho chủ hàng Trung Quốc tại chợ khu vực cửa khẩu T1, theo thỏa thuận à đồng ý với à Đỗ Hồng V là à sẽ chuyển tiền Việt cho chủ hàng của à V ở Việt Nam và à V chuyển tiền Trung Quốc cho à. Sau đó, à Đỗ Hồng V có yêu cầu à chuyển trước tiền Việt vào các số tài khoản khác nhau tại Việt Nam. Tổng đến ngày 30/7/2018 à V đã yêu cầu chuyển tiền vào các số tài khoản khác nhau tại Việt Nam với số tiền 900.000.000 đồng. Khi đã nhận được số tiền trên à V không chuyển trả cho à tiền Trung Quốc như đã thỏa thuận, sau đó à yêu cầu à V trả lại à số tiền Việt mà à V đã nhận. Tuy nhiên, à V khất hẹn và thất hẹn. Bà đã nhiều lần liên lạc, gọi điện thì à V không nghe máy, nhắn tin không trả lời, à phải đi tìm à V ở nhiều nơi nhưng không gặp được. Tháng 6/2019, à gặp được à V tại nhà riêng, tại đây à V tiếp tục khất hẹn và xác nhận các khoản nợ ằng giấy vay tiền và hai ên thỏa thuận từ tháng 6 đến tháng 12/2019 (âm lịch) mỗi tháng trả 30.000.000 đồng, số còn lại sang năm 2020 mỗi tháng trả 25.000.000 đồng cho đến hết số tiền nợ. Sau khi viết giấy nhận nợ theo cam kết, tính đến ngày 03/02/2021 à V mới trả được 145.000.000 đồng, mặc dù không trả như đã thỏa thuận. Đến nay số tiền à V chưa thanh toán là 755.000.000 đồng, lãi phát sinh trên số tiền nợ gốc 755.000.000 đồng từ ngày 30/7/2018 đến ngày 30/10/2021 theo mức lãi suất là 1%/tháng: 755.000.000 đồng x 1% x 39 tháng là 294.450.000 đồng.

Tại phiên tòa, à thay đổi yêu cầu về thời điểm tính lãi, mức lãi suất và thời gian trả lãi. Theo đó, à yêu cầu à V ngoài nghĩa vụ phải thanh toán số nợ gốc 755.000.000 đồng và chịu lãi suất 0,83%/tháng tính từ tháng 3/2021 đến ngày xét xử là 11 tháng, 23 ngày. Bà H tự nguyện chỉ yêu cầu tính tròn là 11 tháng, với số tiền làm tròn là 65.000.000 đồng. Tổng số tiền à khởi kiện yêu cầu à Đỗ Hồng V phải thanh toán là 820.000.000 đồng. Ngoài ra, à không yêu cầu anh Trần Xuân T phải liên đới chịu nghĩa vụ vì à V là người vay trực tiếp, sau này à V và anh T tự thỏa thuận với nhau không liên quan đến à; đối với chi phí tố tụng, à tự nguyện chịu chi phí thông áo lên các phương tiện thông tin đại chúng; về án phí, đề nghị uộc à V phải chịu theo quy định.

Bị đơn bà Đỗ Hồng V vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên, theo tài liệu có trong hồ sơ thể hiện: Tại ản tự khai, iên ản lấy lời khai, iên ản hòa giải lần đầu, à Đỗ Hồng V thừa nhận trong quá trình làm ăn có vay của à Nguyễn Hồng H để chuyển tiền cho các chủ hàng của à V, tổng các lần vay từ 13/4/2018 đến 08/8/2018 là 900.000.000 đồng, tuy nhiên theo à ao gồm cả tiền lãi 1000 đồng/1 ngày. Trong tháng 8/2018, chồng à V có gọi à H xuống nhà, à H có dẫn 4 người nữa xuống và ép viết giấy trả nợ số tiền theo từng tháng với thời hạn như à H trình ày. Khi viết giấy nợ, đã đề nghị à H không tính lãi và đồng ý trả nợ số tiền gốc. Số tiền trả được à H đến nay là 145.000.000 đồng, số tiền trên à và chồng à là anh Trần Xuân T đều iết và cùng nhau trả cho à H. Nay do làm ăn thua lỗ, vỡ nợ nên không thể trả nợ cho bà H theo đúng cam kết. Bà V không đồng ý với số tiền lãi phát sinh. Sau iên ản hòa giải thành ngày 09/11/2021, à Đỗ Hồng V không thừa nhận kết quả hòa giải thành với lý do xem xét lại sổ sách và với thời hạn 20 ngày thì không thể trả nợ, đồng thời, ị đơn yêu cầu đưa chồng cũ là ông Trần Xuân T tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do số tiền vay này là do cả hai vợ chồng cùng vay trong thời kỳ hôn nhân.

Ngày 10/11/2021, Tòa án đã tiến hành thông áo về việc tiếp tục giải quyết vụ án, triệu tập người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Xuân T; triệu tập à Đỗ Hồng V để làm rõ thêm các vấn đề ị đơn đưa ra. Tuy nhiên, những uổi làm việc sau, Tòa án triệu tập nhưng ị đơn không có mặt để chứng minh cho ý kiến thay đổi của mình. Tòa án tiến hành xác minh và xác định tại địa chỉ nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của ông Trần Xuân T, kết quả ông Trần Xuân T chưa thay đổi nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, chưa thực hiện việc thay đổi nơi tạm trú, thường trú theo quy định và không có mặt tại địa phương, do đó được xác định là cố tình giấu địa chỉ. Tòa án đã tiến hành thông áo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật, hết thời hạn thông áo nhưng ông Trần Xuân T không có mặt tại Tòa án. Tòa án tiến hành xác minh sự vắng mặt của à Đỗ Hồng V, qua xác minh tại khu phố và Ủy an nhân dân thị trấn xác định, à Đỗ Hồng V thực tế vẫn ở địa chỉ số nhà N, khu H, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lạng Sơn. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn ản tố tụng theo quy định.

Phần tranh luận nguyên đơn không đồng ý với ý kiến của ị đơn trên lời khai được công ố cho rằng có lãi 1000đồng/1 triệu/ngày. Ngoài ra, giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và thay đổi mức lãi suất, thời gian tính lãi.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T phát iểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tuân thủ đúng pháp luật tố tụng dân sự về thụ lý vụ án, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ, hòa giải, gửi hồ sơ đến Viện kiểm sát. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử áp dụng, tuân thủ đúng trình tự thủ tục tố tụng; nguyên đơn chấp hành đúng và đầy đủ quy định pháp luật tố tụng dân sự, ị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa chấp hành đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Hồng H, uộc à Đỗ Hồng V phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền 755.000.000 đồng tiền nợ gốc và 65.000.000 đồng tiền lãi phát sinh. Ngoài ra phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: quan hệ pháp luật tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự, và loại tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện, quy định tại Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về việc giải quyết vắng mặt ị đơn Đỗ Hồng V và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Trần Xuân T. Bà Đỗ Hồng V và anh Trần Xuân T được Tòa án triệu tập và niêm yết hợp lệ, đồng thời thông áo trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng vắng mặt không có lý do. Phiên tòa đã được hoãn lần thứ nhất. Căn cứ vào khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt.

[3] Về nội dung vụ án: Trong quá trình làm ăn giữa à Nguyễn Hồng H và à Đỗ Hồng V có thỏa thuận vay tài sản (tiền), theo đó từ ngày 13/4/2018 đến 08/8/2018 à Đỗ Hồng V có vay của bà Nguyễn Hồng H nhiều lần với tổng số tiền là 900.000.000 đồng. Trong tháng 8/2018, à V đã thỏa thuận với à H sẽ thực hiện việc trả nợ theo tháng, theo đó từ tháng 6 đến tháng 12/2019 (âm lịch) mỗi tháng trả 30.000.000 đồng, số còn lại sang năm 2020 mỗi tháng trả 25.000.000 đồng cho đến hết số tiền nợ. Sau khi viết giấy nhận nợ nhưng à V không thực hiện như cam kết đã thỏa thuận từ năm 2019. Tính đến ngày 03/02/2021 à V mới trả được 145.000.000 đồng, hiện còn nợ gốc 755.000.000 đồng.

[4] Xét yêu cầu khởi kiện của à Nguyễn Hồng H, yêu cầu uộc à Đỗ Hồng V phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền 755.000.000 đồng là có căn cứ chấp nhận, ởi lẽ nguyên đơn và ị đơn đều thừa nhận số nợ gốc. Đối với yêu cầu uộc à V phải chịu lãi phát sinh, tại thời điểm giao kết hợp đồng, hai ên không thỏa thuận về lãi suất, vì vậy căn cứ Điều 5, Điều 6 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định về lãi, lãi suất, phạt vi phạm và Điều 468 Bộ luật dân sự 2015. Tại phiên tòa, à H tự nguyện thay đổi về thời gian tính lãi và mức lãi suất là phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[5] Đối với ý kiến của à Đỗ Hồng V yêu cầu đưa anh Trần Xuân T vào tham gia tố tụng và có trách nhiệm liên đới cùng thực hiện nghĩa vụ, đồng thời cho rằng trong số tiền à vay nợ có cả lãi là 1000đồng/ngày, vấn đề này Hội đồng xét xử thấy rằng: Theo Quyết định Công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 32/2020/QĐST-HN Đ ngày 24/3/2020 của Tòa án nhân dân huyện T thì thời điểm vay là thời điểm anh Trần Xuân T và à Đỗ Hồng V vẫn là quan hệ vợ chồng hợp pháp. Tuy nhiên, giấy vay tiền được xác lập giữa à V và à H, đồng thời, tại iên ản hòa giải thành ngày 09/11/2021 à V thừa nhận số tiền chưa thanh toán cho à H và à có nghĩa vụ thực hiện trả cho à H số tiền 755.000.000 đồng; việc ký iên ản hòa giải thành không ai ép uộc và hoàn toàn tự nguyện; sau khi hòa giải thành à V thay đổi ý kiến và đề nghị đưa chồng vào tham gia tố tụng để cùng thực hiện nghĩa vụ. Đây là nghĩa vụ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo quy định tại Điều 27, Điều 30, Điều 45 của Luật hôn nhân và gia đình hoặc văn ản thỏa thuận giữa hai vợ chồng nhưng phải chứng minh được.

[6] Tuy nhiên, Tòa án đã tiến hành triệu tập nhiều lần, à V không tham gia tố tụng, đều vắng mặt và từ ỏ quyền, nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh của mình theo quy định tại Điều 5, 6 và Điều 70 của Bộ luật tố tụng dân sự thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về các đương sự; đối với ý kiến về việc trả lãi 1000đồng/1triệu/ngày, à V cũng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh, mặt khác Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đã an hành Quyết định số 13/TB-VPCQCSĐT ngày 18/8/2021 về việc không khởi tố vụ án hình sự và đã xác định việc vay nợ giữa à V và à H là quan hệ dân sự. Tòa án sẽ căn cứ vào các tài liệu đã thu thập được để giải quyết vụ án. Do đó, có căn cứ chấp nhận yêu cầu của à Nguyễn Hồng H, uộc à Đỗ Hồng V có nghĩa vụ thanh toán số tiền 755.000.000 đồng và à H chỉ yêu cầu số tiền lãi phát sinh là 65.000.000 đồng với tổng số tiền là 820.000.000 đồng. Đối với à V, sau khi thực hiện nghĩa vụ, à V vẫn còn quyền yêu cầu anh Trần Xuân T liên đới thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho mình theo quy định tại Điều 288 của Bộ luật dân sự.

[7] Về án phí và chi phí tố tụng: Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 36.600.000 đồng. Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên ị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải trả cho nguyên đơn là 820.000.000 đồng. Trả cho à Nguyễn Hồng H 25.481.250 đồng theo quy định. Về chi phí tố tụng khác, ghi nhận sự tự nguyện của à Nguyễn Hồng H.

[8] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, khoản 2 Điều 180, các Đều 227, 228, 235, 266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 163, 166, 280, 288, 357, 463, 466 và Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015; các Điều 27, 30, 37 và Điều 60 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Điều 24, 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy an thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Danh mục án phí, lệ phí tòa án được an hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của à Nguyễn Hồng H. Buộc à Đỗ Hồng V trả cho à Nguyễn Hồng H số tiền nợ gốc là 755.000.000 đồng và số tiền lãi phát sinh là 65.000.000 đồng. Tổng số tiền à Đỗ Hồng V phải thanh toán cho à Nguyễn Hồng H là 820.000.000 (Tám trăm hai mươi triệu) đồng.

Kể từ ngày ản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2. Về án phí: Bà Đỗ Hồng V phải chịu 36.600.000 (ba mươi sáu triệu sáu trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

- Hoàn trả cho à Nguyễn Hồng H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 25.481.250 (hai mươi năm triệu bốn trăm tám mươi mốt nghìn hai trăm năm mươi) đồng, theo iên lai số AA/2021/0006259 ngày 18/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Lạng Sơn.

- Ghi nhận sự tự nguyện chịu chi phí thông áo trên các phương tiện thông tin đại chúng là 3.000.000 đồng của à Nguyễn Hồng H.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn à Nguyễn Hồng H có quyền kháng cáo ản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; ị đơn à Đỗ Hồng V và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Trần Xuân T vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được ản án hoặc ản án được niêm yết hợp lệ.

Tập hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 01/2022/DS-ST

Số hiệu:01/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tràng Định - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về