Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 268/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN G, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 268/2021/DS-ST NGÀY 27/12/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 27 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận G, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 60/2021/DSST ngày 08 tháng 02 năm 2021 về việc: “ Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 187/2021/QĐXX- DS ngày 12 tháng 11 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 179/2021/QĐST- DS ngày 06 tháng 12 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần S Trụ sở : Lầu 8, a-c Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận X, Thành phố H.

Đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D - chức vụ: Tổng Giám đốc

Đại diện theo ủy quyền: Bà Huỳnh Thị Như Q, sinh năm 1977 Chức vụ : Giám Đốc Chi nhánh P và ông Ngô Việt T, sinh năm 1988; Ông Lê Hữu P, sinh năm 1977;

Địa chỉ : Số B Chung cư X, phường 14, quận T, Thành phố H (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

Bị đơn: Bà Uông Trần Thị Ngọc T, sinh năm 1976 Địa chỉ thường trú: Số A Nguyễn Thái Sơn, phường 5, quận G, Thành phố H (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 22 tháng 01 năm 2021; bản tự khai ngày 10/3/2021; ngày 15/4/2021 và ngày 12/11/2021 và trong quá trình xét xử đại diện nguyên đơn ông Lê Hữu P trình bày:

Ngày 28/11/2013, bà Uông Trần Thị Ngọc T có ký với Ngân hàng Thương mại cổ phần S (gọi tắt là Ngân hàng) hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm: Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng - các tài liệu này được gọi chung là hợp đồng). Căn cứ thu nhập của bà T, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 15.000.000 đồng, mục đích vay là tiêu dùng cá nhân.

Sau khi được cấp thẻ tín dụng bà T đã thực hiện giao dịch với tổng số tiền là 60.502.000 đồng.

Trong quá trình sử dụng thẻ từ ngày kích hoạt đến nay bà T đã thanh toán cho ngân hàng số tiền là 55.360.700 đồng. Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng bà T vẫn không có thiện chí trả nợ. Do bà T vi phạm nghĩa vụ thanh toán tại (Điều 2 của Bản điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng) nên ngày 06/11/2015, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang dư nợ quá hạn (Điều 23 của bản điều khoản và điều kiên phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng).

Vì vậy Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Uông Trần Thị Ngọc T phải thanh toán cho ngân hàng tổng số tiền tạm tính tới ngày 15/01/2021 là 52.351.675 đồng, trong đó:

- Nợ gốc : 15.218.779 đồng.

- Lãi quá hạn: 36.105.654 đồng.

Và bà T phải thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 15/01/2021 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại hợp đồng.

Tại bản tự khai ngày 12/11/2021, đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng yêu cầu bà Uông Trần Thị Ngọc T phải thanh toán cho ngân hàng tổng số tiền tạm tính đến ngày 12/11/2021 là 57.050.356 đồng, trong đó:

- Nợ gốc : 15.218.779 đồng - Lãi quá hạn: 41.831.577 đồng;

Và bà T phải thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 13/11/2021 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại hợp đồng.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ và triệu tập bà Uông Trần Thị Ngọc T đến Tòa án để lấy lời khai nhưng bà T không đến. Tòa án tiến hành xác minh nơi cư trú của bà Uông Trần Thị Ngọc T tại địa chỉ: Số A đường Nguyễn Thái Sơn, Phường 05, quận G, Thành phố H, được biết: “Bà T có hộ khẩu thường trú tại địa chỉ trên, hiện nay bà T không còn cư trú tại địa chỉ trên, không rõ đi đâu.” Tòa án tiến hành xác minh nơi cư trú của bà Uông Trần Thị Ngọc T tại địa chỉ: Số K đường số 11, Phường 05, quận G, Thành phố H, được biết: “Bà T không đăng ký hộ khẩu thường trú và tạm trú tại địa chỉ : Số K đường số 11, Phường 05, quận G, Thành phố H” Tòa án cũng tiến hành xác minh nơi bà T công tác là Ủy ban nhân dân Phường 05 quận G được biết: “Bà T hiện không còn công tác tại Ủy ban nhân dân phường 5, quận G, thành phố H. Bà T đã nghỉ việc từ năm 2016 và không rõ địa chỉ mới nơi chuyển đến của bà.” .

Tòa án đã yêu cầu đại diện Ngân hàng cung cấp chứng cứ nơi cư ngụ mới của bà T, tuy nhiên bà T chuyển đi ở nơi khác không thông báo cho Ngân hàng và Ngân hàng cũng đã xác minh thông báo khởi kiện gửi đến nơi làm việc của bà T là Ủy ban nhân dân, phường 5, quận G, nhưng bà T cũng đã nghỉ việc tại Ủy ban nhân dân phường 5, vì vậy đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần S yêu cầu Tòa án niêm yết tại địa chỉ nơi cư trú cuối cùng của bà T tại số A đường Nguyễn Thái Sơn, Phường 05, quận G, Thành phố H để tống đạt, niêm yết và xét xử vắng mặt bà T.

Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà T không đến, vì vậy Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho bà T hợp lệ theo quy định pháp luật vì vậy Tòa án đưa vụ kiện ra xét xử theo pháp luật quy định.

Tại phiên tòa hôm nay:

Nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần S do ông Lê Hữu P là đại diện theo ủy quyền có đơn xin vắng mặt tuy nhiên ông vẫn giữ yêu cầu buộc bà Uông Trần Thị Ngọc T phải trả số tiền là 57.050.356 đồng, tính đến ngày 12/11/2021 trong đó:

- Nợ gốc : Nợ gốc : 15.218.779 đồng;

- Lãi quá hạn: 41.831.577 đồng.

Và bà T phải thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 13/11/2021 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại hợp đồng.

Bà Uông Trần Thị Ngọc T là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận G phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử:

-Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi xét xử thấy rằng Thẩm phán đã thực hiện đúng và đầy đủ nội dung quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Trong quá trình giải quyết vụ án về thẩm quyền thụ lý vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định tư cách pháp lý và mối quan hệ giữa nhưng người tham gia tố tụng, đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ và hòa giải. Thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cấp, tống đạt các văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng .

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử : Tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các qui định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về phiên tòa sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bà Uông Trần Thị Ngọc T phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S số tiền là 57.050.356 đồng, tính đến ngày 12/11/2021 trong đó:

- Nợ gốc : Nợ gốc : 15.218.779 đồng;

- Lãi quá hạn: 41.831.577 đồng.

Bà Uông Trần Thị Ngọc T phải thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 13/11/2021 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại hợp đồng Đương sự phải chịu án phí dân sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết :

Nguyên đơn Ngân hàng hàng thương mại cổ phần S khởi kiện bị đơn bà Uông Trần Thị Ngọc T về yêu cầu trả số tiền nợ phát sinh từ hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 28/11/2013 được ký kết giữa hai bên. Bị đơn bà Uông Trần Thị Ngọc T có nơi cư trú cuối cùng tại địa chỉ số A đường Nguyễn Thái Sơn, Phường 05, quận G, Thành phố H, đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận G, Thành phố H được quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về thủ tục tố tụng :

-Đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ và có đơn xin vắng mặt tại phiên Tòa. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

-Bị đơn bà Uông Trần Thị Ngọc T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa, do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà T theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 227 và khoản 3 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

2. Về nội dung tranh chấp:

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy: Về nợ gốc:

Căn cứ vào giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 28/11/2013 đã ký giữa Ngân hàng hàng thương mại cổ phần S với bà Uông Trần Thị Ngọc T cho thấy việc giao kết hợp đồng tín dụng giữa các bên là có thật. Nội dung các bên thỏa thuận trong hợp đồng phù hợp với các quy định của pháp luật tại các Điều 91 và 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 28/11/2013 đã ký giữa Ngân hàng hàng thương mại cổ phần S với bà Uông Trần Thị Ngọc T; Bản tự khai ngày 12/11/2021 của đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng; Bản sao kê ngày 15/4/2021 và ngày 12/11/2021 và Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng cho bà T với hạn mức 15.000.000 đồng với mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp thẻ, bà T đã thực hiên giao dịch với tổng số tiền là 60.502.000 đồng và đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 55.3690.700 đồng còn lại nợ gốc là 15.218.779 đồng. Tuy nhiên qua nhiều lần nhắc nhở bà T vẫn không thanh toán thêm cho Ngân hàng bất kỳ khoản tiền nào. Bà T đã vi phạm nghĩa vụ về thời gian thanh toán nợ gốc theo như hợp đồng đã ký kết. Vì vậy yêu cầu của Ngân hàng buộc bà T phải trả số tiền nợ gốc là 15.218.779 đồng là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về nợ lãi:

Căn cứ khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 17/6/2010 và được sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định “… Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật”.

Căn cứ tại Thông tư 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 hướng dẫn Tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận.

Căn cứ vào giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 28/11/2013 và Điều 23 của Bản điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng thương mại cổ phần S đã được ký giữa Ngân hàng và bà T;

Căn cứ vào bảng sao kê ngày 15/4/2021 và bảng sao kê ngày 12/11/2021, Hội đồng xét xử nhận thấy việc thỏa thuận lãi suất giữa các bên là phù hợp với quy định của pháp luật. Theo đó bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền lãi tạm tính đến ngày 12/11/2021 là 41.831.577 đồng là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận và bà T phải tiếp tục thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 13/11/2021 trên số nợ gốc cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại hợp đồng Như vậy, Hội đồng xét xử buộc bà Uông Trần Thị Ngọc T phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S tổng số tiền lãi và gốc tính đến ngày 12/11/2021 là 57.050.356 đồng, trong đó: Nợ gốc: 15.218.779 đồng và Lãi quá hạn: 41.831.577 đồng. Thanh toán số tiền trên một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Về án phí:

Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về nghĩa vụ nộp án phí và Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí. Hoàn lại tiền tạm ứng án phí cho Ngân hàng TMCP S số tiền 1.283.111 đồng tiền tạm nộp án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0027961 ngày 08/02/2021 của Chi cục thi hành án dân sự quận G. Bị đơn phải chịu án phí tương đương với phần yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn được Tòa án chấp nhận là 57.050.356 đồng. Do đó bà T phải chịu án phí là 2.852.518 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 220, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 271, Điều 273, Điều 278 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 91; Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 được sửa đổi bổ sung năm 2017 ;

- Căn cứ Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 hướng dẫn Tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận;

- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Buộc bà Uông Trần Thị Ngọc T có trách nhiệm trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S số tiền 57.050.356 đồng (Năm mươi bảy triệu không trăm năm mươi ngàn, ba trăm năm mươi sáu) đồng, tính đến ngày 12/11/2021. Trong đó nợ gốc là 15.218.779 đồng và lãi quá hạn: 41.831.577 đồng. Thanh toán một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Bà Uông Trần Thị Ngọc T còn phải chịu thêm tiền lãi phát sinh trên tổng số nợ gốc kể từ ngày 13/11/2021 cho đến khi thanh toán xong theo như lãi suất hợp đồng được ký ngày 28/11/2013 (gồm giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng) .

Việc giao nhận tiền được thực hiện tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

2. Án phí dân sự sơ thẩm:

Bị đơn bà Uông Trần Thị Ngọc T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 2.852.518 (Hai triệu tám trăm năm mươi hai ngàn năm trăm mười tám) đồng.

Hoàn lại số tiền tạm nộp án phí cho Ngân hàng thương mại cổ phần S là 1.283.111 (Một triệu hai trăm tám mươi ba ngàn một trăm mười một) đồng tiền tạm nộp án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0027961 ngày 08/02/2021 của Chi cục thi hành án dân sự quận G.

3.Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo và thời hạn kháng cáo: Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết tại địa phương

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 268/2021/DS-ST

Số hiệu:268/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:27/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về