Bản án về tranh chấp đòi tài sản số 06/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 06/2021/DS-ST NGÀY 22/11/2021 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện S xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 19/2021/TLST - DS ngày 27 tháng 04 năm 2020 về việc “ Tranh chấp đòi tài sản về việc góp vốn mua chung đất ” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2021/QĐXXST – DS ngày 30/9/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:

1.Ông Hoàng Công T, sinh năm 1959 (có mặt) Nơi ĐKHKTT: Tiểu kh, thị trấn L, huyện L, B.

- Bị đơn:

1. ông Đinh Thanh T, sinh năm 1968 (có mặt ) Nơi KĐKHKTT: Xóm C, xã C, huyện L, tỉnh B.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Bùi Thị D, sinh năm 1974 ( vắng mặt ) Nơi KĐKHKTT: Xóm Cột B, xã C, huyện L, tỉnh H.

2.Ông Chu Đức Tr, sinh năm 1975( có mặt ) Nơi ĐKHKTT: Tiểu kh, thị trấn L, huyện L, tỉnh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, ý kiến trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Ông Hoàng Công T trình bày:

Tháng 7/2010, ông Đinh Thanh T( còn gọi là Sáu Ây) có rủ ông và ông Chu Đức Tr góp vốn mua chung thửa đất tại xóm C, xã Tr, huyện L, tỉnh B, việc góp vốn và thỏa thuận mua chung đất không lập thành văn bản mà chỉ thỏa thuận miệng với nhau. Sau khi bàn bạc, thỏa thuận ông T là người đứng ra thu tiền. Số tiền ông đã nộp cho ông T2 3 lần cụ thể như sau:

Lần 1 : Vào ngày 23/7/2010 số tiền là 150.000.000đồng, số tiền này bà Bùi Thị D( vợi ông T) nhận và đã giao cho ông T.

Lần 2: Vào ngày 26/8/2010, ông T đến nhà ông T1 nhận số tiền là 150.000.000đồng Lần 3: Ông Tr góp giúp ông T số tiền là 240.000.000đồng.

Tổng số tiền ông Tđã nộp cho ông T là 540.000.000đồng. Do cùng làm ăn với nhau nên trừ chi phí các khoản . Đến ngày 15/10/2010 ông T đã viết giấy ký nhận ông T góp vốn số tiền 455.000.000đồng là đúng ( trong đó số tiền 240.000.000đồng là chuyển từ ông Tr sang).

Đến Ngày 18/11/2010, do không có nhu cầu lấy đất, ông T1 xin rút vốn, ông T2 đồng ý và đã trả cho ông 200.000.000đồng còn lại 255.000.000đồng ông T2 ký nhận nợ.

Năm 2020, ông có đến gặp ông T để đòi nốt số tiền 255.000.000đồng tiền nhưng ông T không trả và còn nói thách ông kiện ra Tòa.

Nay ông T đề nghị Tòa án xử buộc ông T phải trả ông số tiền 255.000.000đồng do ông T còn giữ của ông và không yêu cầu tính lãi.

*Về phía bị đơn: Tại văn bản ngày 16/9/202 và tại phiên tòa ông Đinh Thanh T2 trình bày:

Trong năm 2010, ông cùng với ông Chu Đức Tr, và ông Hoàng Công T có góp vốn đầu tư mua đất tại xã Trường Sơn cũ( nay là xã Cao Sơn ) có biên bản góp vốn mỗi người 33,33%. Tổng số tiền mua thửa đất khoảng 1.800.000.000đồng ông và ông T ông Tr cùng nhau giải phóng mặt bằng để mua đất của một số hộ dân .Ông là người đứng ra thu tiền, số tiền thực tế ông T đã nộp cho ông bao nhiêu thì ông không nhớ. Ông T công nhận các giấy biên nhận bản gốc do ông Tcung cấp cho Tòa là do chính tay ông Tviết và ký xác nhận. Do ông T không còn khả năng giải phóng mặt bằng nên cuối năm 2010 ông T xin rút vốn ông đã đồng ý, khi họp cổ đông ông T đã trả ông T200.000.000đồng, số tiền còn lại hai bên thống nhất khi nào ông Tr thanh toán cho ông T50% số tiền mà ông Trí và ông T lấy lại phần đất của ông Tthì ông Ttrả nốt ông T. Đầu năm 2021 ông đã gọi ông Tđến nhà và trả hết, khi trả ông T có viết giấy nhưng lâu ngày đã bị thất lạc. Chính vì ông đã thanh toán hết nên ông T không có ý kiến gì. Thời gian đã lâu nay ông T1 kiện ông đề nghị ông trả nốt 255.00.000đồng tiền góp vốn, ông không đồng ý, ông T không có chứng cứ nộp cho tòa án và đề nghị Tòa không hòa giải.

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan :

Ông Chu Đức Trtrình bày: Năm 2010 ông cung ông Hoàng Công T và ông Đinh Thanh T có thỏa thuận cùng nhau góp vốn mua thửa đất diện tích khoảng 2,8 ha tại thôn Cột Bài ( cũ), tỷ lệ đầu tư mỗi người nộp 33,3% vốn. Ông T2 là người đứng ra thu tiền. Đến năm 2011 thì ông Tthông báo xin rút vốn không đầu tư nữa. Ông Trívà ông T thống nhất mỗi người mua lại 50% phần ông T1 đã rút. Ông T nói số tiền mua lại mỗi người phải nộp khoảng hơn 200.000.000đồng, ông Tr đã nộp cho ông T. Việc ông T nộp tiền và rút tiền từ ông T như thế nào ông Tr không nắm được. Năm 2017 ông Tr tiếp tục rút vốn không đầu tư nữa. Hiện tại thửa đất đó là của ông Tkhông liên quan gì đến ông Tr và ông T nữa. Trong giấy biên nhận ông T nộp cho Tòa án có ghi ( số tiền 240.000.000đồng chuyển từ ông Tr sang) Việc này là thỏa thuận giữa ông Tvà ông T, cả ông T và ông T không nói với ông nên ông không biết gì về khoản tiền này.

Nay ông T khởi kiện đòi ông T số tiền 255.000.000đồng tiền góp vốn mua đất không liên quan gì tới ông.

Bà Bùi Thị D trình bày tại biên bản lấy lời khai ngày 11/6/2021, bà là vợ của ông Đinh Thanh T hiện tại ông T vẫn đang sinh sống tại thôn Cột B xã Cao S, nhiều lần bà nhận được văn bản thông báo và giấy triệu tập của Tòa án do bà D trưởng xóm mang đến yêu cầu ông T đến Tòa làm việc, nhưng vì bận công việc ông T không đến Tòa .

Việc làm ăn của ông T với ông T như thế nào bà D không nắm được và cũng không liên quan. Số tiền ông T khởi kiện đòi ông T2 không liên quan gì tới bà D.

Quá trình giải quyết do ông T không đến Tòa làm việc nên không hòa giải được. Ngày 16/9/2021 ông Tđến Tòa trong bản tự khai và biên bản lấy lời khai ông Tđề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải Đại diện Viện kiểm sát huyện S tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định tại Điều 12 Bộ luật tố tụng dân sự. Các thành viên của Hội đồng xét xử và thư ký Tòa án có mặt đúng theo như Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Hội đồng xét sử và thư ký phiên tòa thực hiện đúng các quy định tại Điều 48,49,51 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung : Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 166,355 Bộ luật dân sự, x chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Công T1 buộc ông Đinh Thanh T phải trả ông Hoàng Công T số tiền 255.000.000đồng.( hai trăm năm mươi lăm triệu đồng )

- Về án phí : Ông Đinh Thanh T phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

{1} Tố tụng: Về quan hệ tranh chấp theo đơn khởi kiện ngày 11/01/2021 của ông Hoàng Công T khởi kiện đòi ông Đinh Thanh T phải số tiền 255.000.000đồng, tiền do góp vốn mua chung đất.

Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án: Tranh chấp đòi tài sản “về việc góp vốn mua chung đất”theo quy định tại Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.

{1.2} Về thẩm quyền: Ông Đinh Thanh T có hộ khẩu thường trú tại thôn Cột B xã C huyện L tỉnh Hòa, căn cứ vào các khoản 3 Điều 26, điểm a khoản1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 của BLTTDS đây là vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Bình.

[2] Về nội dung:

Các đương sự đều thống nhất, năm 2010 ông Hoàng Công T, ông Đinh Thanh T ông Chu Đức Tr thỏa thuận góp vốn đầu tư mua chung thửa đất tại Cầu D xã Tr, huyện L, tỉnh H. Theo tỷ lệ đầu tư mỗi người 33,3% ông T là người đứng ra thu tiền.

Theo ông Hoàng Công T khai thì tổng số tiền ông T đã góp cho ông T là 540.000.000đồng cụ thể: Lần 1 vào ngày 19/7/2010 là 150.000.000đồng, lần 2 vào ngày 26/8/2010 là 150.000.000đồng; lần 3 do ông Chu Đức Trí góp giúp là 240.000.000đồng.

Đến cuối năm 2010, ông T xin rút vốn ông T đồng ý, do làm ăn chung với nhau nên trừ các khoản đã chi phí thì ông T2 chỉ ký xác nhận số vốn góp là 455.000.000đồng. Đồng thời trong số tiền này ông T xác nhận có 240.000.000đồng là tiền ông Tr chuyển sang.

Ngày 18/11/2010, ông T đã hoàn vốn đầu tư cho ông T số tiền 200.000.000đồng, số còn lại 255.000.000đồng ông Đinh Thanh T2 đã ký nhận nợ.

Quá trình giải quyết vụ án , ông Đinh Thanh T đề nghị Tòa án không Hòa giải, nhưng tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai ngày 16/9/2010 và lời khai tại tòa ngày hôm nay ông T không đồng ý trả ông T số tiền 255.000.000đồng với lý do, đầu năm 2011 ông đã gọi ông T đến nhà và trả nốt số tiền còn lại. Tuy nhiên ông T không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho quan điểm của mình.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ các đương sự giao nộp, căn cứ vào lời khai của các đương sự, Nguyên đơn, Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Hội đồng xét xử xét thấy : Giấy biên nhận ghi số tiền góp vốn của ông Hòang Công T ngày 15/10/2010 và giấy hoàn vốn đầu tư có xác nhận số nợ còn lại của ông T1 ngày 18/11/2010, nguyên đơn giao nộp cho Tòa án là do ông Đinh Thành T viết và ký nhận nợ nên ông T phải có trách nhiệm trả khoản nợ này.

Do vậy: Yêu cầu khởi kiện đòi 255.000.000đồng tiền góp vốn của ông Hoàng Công T là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Ông Tkhông yêu cầu tính lãi Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Do yêu cầu của ông Hoàng Công T được chấp nhận nên ông T được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp. Ông Đinh Thanh T2 phải chịu án phí theo quy định pháp luật Từ những căn cứ nhận định nêu trên.

QUYẾT ĐỊNH

1.Áp dụng các Điều 35, 147, 271,273 BLTTDS năm 2015; Điều 166, 357 BLDS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

- Tuyên xử : Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Công T -Buộc ông Đinh Thanh T phải thanh toán trả số tiền 255.000.000đồng ( (Hai trăm, năm mươi lăm triệu đồng chẵn) cho ông Hoàng Công T.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu người phải thi hành án không trả khoản tiền nêu trên cho người được thi hành án, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải trả khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự, tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thỏa thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án. Hoặc bị cư ng chế thi hành ántheo quy định tại diều 6,7 và 9 của luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

2. Về án phí: Ông Đinh Thanh T phải chịu 12.750.000đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trà ông Hòang Công T1 số tiền 6.375.000đồngđã nộp theo Biên lai số 0003137 ngày 27/04/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện S.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trọng hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

95
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đòi tài sản số 06/2021/DS-ST

Số hiệu:06/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lương Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về