Bản án về tranh chấp chia di sản thừa kế số 182/2022/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 182/2022/DS-PT NGÀY 30/06/2022 VỀ TRANH CHẤP CHIA DI SẢN THỪA KẾ

Ngày 30 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số 11/2021/TLPT-DS ngày 11 tháng 01 năm 2021 về việc “Tranh chấp chia di sản thừa kế”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 36/2020/DS-ST ngày 04/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 6986/2022/QĐ-PT ngày 15 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Minh H1, sinh năm 1971, địa chỉ: thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Bị đơn: Bà Trần Thị Q1, sinh năm 1954, địa chỉ: thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Nguyễn Văn N và Luật sư Ngô Thành B –Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội. Luật sư N vắng mặt; Luật sư B có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Bà Trần Thị P1, sinh năm 1969; địa chỉ: thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng; Có mặt.

- Bà Trần Thị V1; địa chỉ: thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng;

Vắng mặt.

- Bà Trần Thị X; địa chỉ: thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

- Bà Trần Thị Kim H2; địa chỉ: thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng;

Vắng mặt.

- Bà Trần Thị Minh P2, sinh năm 1973; địa chỉ: thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng; Có mặt.

- Chị Trần Thị H3; địa chỉ: xã Đ1, huyện N, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt. mặt.

- Chị Trần Thị P3; địa chỉ: xã Đ1, huyện N, thành phố Hải Phòng; Vắng - Chị Trần Thị T1; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xã Đ1, huyện N, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

- Chị Trần Thị H4; địa chỉ: xã Đ1, huyện N, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

- Anh Trần Mạnh Q2; địa chỉ: phường L1, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; Vắng mặt.

- Anh Trần Văn D1; địa chỉ: thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

- Anh Trần Văn V2; địa chỉ: Tổ dân phố Chiến Thắng, thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

- Chị Trần Thị Y nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: phường T2, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; Vắng mặt.

- Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Q1, bà Trần Thị V1, bà Trần Thị X, bà Trần Thị Kim H2, anh Trần Văn D1, anh Trần Văn V2: Bà Nguyễn Thùy D2, sinh năm 1985; địa chỉ: thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

Người đại diện theo pháp luật của chị Trần Thị H3, chị Trần Thị P3, chị Trần Thị H4, anh Trần Mạnh Q2: Bà Trần Thị Kim H2; địa chỉ: thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của anh Trần Văn D1, anh Trần Văn V2:

Bà Bùi Thị H5; địa chỉ: thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của chị Trần Thị Y: Bà Trần Thị Minh H1, địa chỉ: thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyên đơn là bà Trần Thị H1 trình bày: Cụ Trần Văn Đ2 chết ngày 18/01/2019 có vợ là cụ Lê Thị L chết ngày 03/3/2017. Bố mẹ cụ Đ2, cụ L đều chết trước hai cụ đã lâu. Cụ Đ2, cụ L không có bố mẹ nuôi, không có con nuôi, không có con riêng, chỉ có mười người con chung là: Bà Trần Thị Q1; Bà Trần Thị V1; Bà Trần Thị X; Bà Trần Thị Kim H2; Bà Trần Thị P1; Bà Trần Thị Minh H1; Bà Trần Thị Minh P2; Ông Trần Văn B (chết ngày 29/12/2003); Ông Trần Văn A (chết ngày 15/7/2002; Ông Trần Văn T2 (chết năm 2013).

Ông Trần Văn B có vợ nhưng đã ly hôn và sinh được hai người con là anh Trần Mạnh Q2, Trần Mạnh C1 (đã chết năm 2007, không có vợ con, không có bố mẹ nuôi). Ông B và bà Bùi Thị Kim O có một con chung là Trần Thị Y. Ông B không có con nuôi, không có bố mẹ nuôi.

Ông Trần Văn A có vợ là bà Bùi Thị H5 và có hai con chung là Trần Văn D1, Trần Văn V2. Ông A không có con nuôi, không có bố mẹ nuôi, không có con riêng.

Ông Trần Văn T2 có vợ là bà Lê Thị L và có bốn con chung là Trần Thị H3, Trần Thị P3, Trần Thị T1, Trần Thị H4. Chị Trần Thị T1 hiện nay lấy chồng và sinh sống tại Hàn Quốc nhưng không rõ địa chỉ, bà Lý cũng theo con sang Hàn Quốc. Ông T2 không có con nuôi, không có bố mẹ nuôi, không có con riêng.

Khi còn sống cụ Đ2, cụ L có diện tích đất hơn 1000m2 tại thị trấn Đ nhưng đã chuyển nhượng một phần cho chị N2 và cho bà H1 diện tích đất là 312,5m2, đều đã làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSD đất). Mọi người đều thống nhất, không có ý kiến gì về việc này.

Cụ L, ông T2, ông A, ông B chết đi không để lại di chúc, không để lại nghĩa vụ gì. Cụ Đ2, cụ L chết đi có để lại di sản là diện tích đất là 669,2m2 tại thị trấn Đ. Một nhà cấp bốn, một móng nhà gạch ba banh, 01 cây nhãn, 03 cây mít; những tài sản này có giá trị không lớn nên bà H1 không yêu cầu chia thừa kế. Cụ Đ2 có để lại di chúc được lập ngày 24/4/2018, đây là bản di chúc sau cùng, có chứng thực của Ủy ban nhân dân thị trấn Đ với nội dung: Diện tích đất 669,2m2 là tài sản chung của vợ chồng cụ, phần của mỗi người là 334,6m2, cụ Đ2 được hưởng phần di sản của vợ là 30,4m2. Tổng cộng cụ có 365m2, cụ để 32,8m2 làm ngõ đi chung, cụ chia cho con H1 107,2m2, con P2 107,4m2, con P1 117,6m2; còn lại để làm nơi thờ cúng. Bà H1 yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Đ2 theo di chúc được lập ngày 24/4/2018, phần còn lại là di sản thừa kế của cụ L đề nghị chia theo quy định của pháp luật.

Bà H1 trình bày thêm: Năm 2017, khi cụ Đ2 còn sống đã cho bà thêm một phần diện tích đất của cụ Đ2, cụ L. Hiện nay bà đã xây công trình khép kín trên cả phần đất này. Việc cho đất được cụ Đ2 lập giấy viết tay do bà giữ tờ giấy này, không làm thủ tục tại chính quyền địa phương. Năm 2014, bố mẹ bà và các anh chị em chỉ cho bà Q1 ở nhờ, xây nhà khoảng 40m2 trên diện tích đất 669,2m2. Bà đồng ý đại diện nhận quyền sử dụng đất chia cho bà P1 và thực hiện các nghĩa vụ nếu được chia.

Bị đơn (bà Trần Thị Q1) và người đại diện hợp pháp của bị đơn trình bày:

Thống nhất với lời khai của nguyên đơn về quan hệ nhân thân, di sản thừa kế của cụ Đ2, cụ L để lại. Năm 2014, cụ Đ2, cụ L đã cho bà Q1 40m2 đất để xây nhà, bà đã xây một nhà cấp 4 để ở từ đó đến nay nhưng chưa làm thủ tục, diện tích đất này vẫn nằm trong di sản thừa kế của cụ Đ2, cụ L. Bà không đồng ý chia đất vị trí theo di chúc của cụ Đ2; đề nghị phần đất cụ Đ2 chia cho các bà P5, H1, Phương làm nơi thờ cúng tổ tiên, chia cho bà H1, P5 diện tích đất ở vị trí khác; còn lại chia theo quy định của pháp luật. Một nhà cấp bốn, một móng nhà gạch ba banh, 01 cây nhãn, 03 cây mít đều có giá trị không lớn nên không yêu cầu chia. Yêu cầu bà H1 phá dỡ tài sản, trả lại phần đất đã lấn chiếm là tài sản của cụ Đ2, cụ L. Bà Q1 đại diện nhận quyền sử dụng đất, đại diện nhận thực hiện các nghĩa vụ nếu được chia.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị P1: Hoàn toàn thống nhất với quan điểm của bà H1, bà đồng ý để bà H1 đại diện nhận quyền sử dụng đất, đại diện thực hiện các nghĩa vụ khác.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là các bà Trần Thị V1, Trần Thị X, Trần Thị Kim H2, Trần Thị Minh P2; người đại diện hợp pháp của anh Trần Mạnh Q2, anh Trần Văn D1, chị Trần Thị H4, chị Trần Thị H3, chị Trần Thị P3: Thống nhất về quan hệ nhân thân, về di sản của cụ Đ2, cụ L để lại như nguyên đơn đã trình bày; đồng ý với quan điểm của bị đơn; đồng ý để bà Q1 đại diện nhận quyền sử dụng đất, đại diện nhận thực hiện các nghĩa vụ nếu được chia.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị Trần Thị T1: Đã xuất cảnh ra nước ngoài trước khi Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, không rõ địa chỉ, đã được niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn không có quan điểm trình bày gửi đến Tòa án.

Người đại diện của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị Trần Thị Y:

Đề nghị giải quyết theo qui định của pháp luật.

Đại diện Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng: Có văn bản trình bày việc chứng thực di chúc theo đúng quy định của pháp luật.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 36/2020/DS-ST ngày 04/09/2020, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã quyết định:

Áp dụng khoản 5 Điều 26, Điều 37, Điều 39, khoản 2 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 623, 625, 630, 635, 636, 643, 650, 651, 652, 660 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Nghị quyết số 04/2017/HĐTPTANDTC ngày 05/5/2017 và Án lệ số 06/2016/AL của Tòa án nhân dân tối cao. Xử:

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Lê Thị L, chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn về chia di sản thừa kế của cụ Trần Văn Đ2 theo di chúc:

Giao cho bà Trần Thị Minh H1 (đại diện cho cả bà Trần Thị P1) được quyền sử dụng diện tích 127,7m2 đất bao gồm các mốc 18-20-16-9-17-18 trên sơ đồ kèm theo bản án tại thửa số 457, tờ bản đồ số 04 tại Tổ dân phố Thắng Lợi, thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng, trên đất có một lán tôn trị giá 2.197.800 đồng và có một phần công trình xây dựng trên đất là tài sản của bà H1.

Giao cho bà Trần Thị Q1 đại diện cho cả các hàng thừa kế là các bà X, V, H2, P1; các anh V, D1, Q2; các chị H4, H3, P2 được quyền sử dụng diện tích 481,9m2 đất bao gồm các mốc 18-19 -3-2-1-12-11-10-17 trên sơ đồ kèm theo bản án tại thửa số 457 tờ bản đồ số 04 tại Tổ dân phố Thắng Lợi, thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng trên đất có một nhà cấp bốn của bà Q1 trị giá 19.840.000 đồng.

Bà Trần Thị Q1 đại diện cho các hàng thừa kế là bà X, V1, H2, P2, anh V, D1, Q2, chị H4, H3, P2 có trách nhiệm thanh toán cho bà Trần Thị H1 là 136.460.000 đồng, bà Trần Thị P1 là 136.460.000 đồng. Bà Q1 đại diện cho các hàng thừa kế là các bà X, V1, H2, P2; các anh V2, D1, Q2; các chị H4, H3, P2 có trách nhiệm thanh toán chị Trần Thị Y số tiền là 30.480.000 đồng, thanh toán cho chị Trần Thị T1 số tiền là 15.240.600 đồng. Tạm giao cho chị Trần Thị H4 quản lý cho chị Trần Thị T1 số tiền là 15.240.600 đồng.

Các bà Trần Thị Minh H1, Trần Thị P1, Trần Thị Q1, Trần Thị V1, Trần Thị X, Trần Thị Kim H2, Trần Thị Minh P2; các anh Trần Mạnh Q2, Trần Văn D1, Trần Văn V2; các chị Trần Thị H3, Trần Thị P3, Trần Thị H4 có quyền sử dụng lối ngõ đi chung diện tích 20m2 có các mốc 4-5-20-18-19 trên sơ đồ kèm theo bản án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về lãi chậm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 16/9/2020, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng có Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án số 20/2020/QĐ-SCBSBA ngày 16/9/2020.

Ngày 18/9/2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng có kháng nghị phúc thẩm số 25/QĐKNPT-VKS-DS, kháng nghị một phần Bản án sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm, đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm theo hướng căn cứ khoản 2 Điều 308; khoản 2 Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa bản án sơ thẩm do Tòa án xác định phần di sản của cụ Đ2 là ½ tài sản chung của vợ chồng mà không cộng phần tài sản cụ Đ2 được thừa kế từ cụ L là không chính xác; Tòa án không chia di sản của cụ Đ2 theo diện tích đã xác định trong di chúc là không tôn trọng nội dung di chúc.

Ngày 16/9/2020, nguyên đơn là bà Trần Thị Minh H1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị P1 có đơn kháng cáo với nội dung đề nghị Tòa án chia di sản thừa kế bằng hiện vật là đất cho bà H1, bà P1 theo di chúc của cụ Đ2, để mỗi người được sử dụng riêng phần đất của mình; Chia di sản thừa kế của cụ L cho bà H1, bà P1 được hưởng theo quy định của pháp luật; Đề nghị Tòa án không cho những người không chăm sóc, nuôi dưỡng cụ Đ2 gồm các bà: Q1, V, Xuân, Hạnh, Hường, Lý, cháu Q2 được hưởng di sản thừa kế.

Ngày 18/9/2020, bị đơn là bà Trần Thị Q1 có đơn kháng cáo với nội dung đề nghị Tòa án hủy Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án số 20/2020/QĐ- SCBSBA ngày 16/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng; Hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại cho thấu tình đạt lý.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Trần Thị Minh H1 và bà Trần Thị P1 giữ nguyên đề nghị Hội đồng xét xử chia riêng di sản thừa kế của cụ L, cụ Đ2 cho mỗi bà bằng hiện vật. Bà Trần Thị Q1 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét không buộc bà phải thanh toán cho bà H1, bà P5, chị Yến, chị T1 giá trị kỷ phần chênh lệch. Theo đó, bà Q1 thay đổi nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng chia di sản thừa kế của cụ L, cụ Đ2 cho bà Q1 được hưởng bằng hiện vật ở phía ngoài được vuông vắn để xây dựng nơi thờ cúng được đẹp. Các bên đương sự đều thống nhất đề nghị Hội đồng xét xử chia di sản thừa kế của cụ Đ2, cụ L bằng hiện vật theo hướng đảm bảo quyền sử dụng đất mà không phải thanh toán phần chênh lệch giá trị cho nhau.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội giữ nguyên kháng nghị phúc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, sau khi tóm tắt nội dung vụ án đã đưa ra nhận định và đề nghị Hội đồng xét xử sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng xác định lại di sản thừa kế của cụ Đ2, xem xét chia thêm cho bà H1, bà P1 di sản thừa kế bằng đất tại vị trí thích hợp; chia di sản thừa kế cho chị Y, chị T1 bằng tiền, buộc bà Q1 phải thanh toán giá trị kỷ phần chênh lệch cho bà H1, bà P1 tương ứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và các đương sự về việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 16/9/2020, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng ban hành Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án số 20/2020/QĐ- SCBSBA ngày 16/9/2020. Việc sửa chữa, bổ sung bản án mặc dù có vi phạm, tuy nhiên việc sửa chữa, bổ sung không làm thay đổi bản chất vụ án nên HĐXX thấy không cần thiết phải hủy bỏ Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án nhưng cần thiết phải rút kinh nghiệm sâu sắc với Tòa án cấp sơ thẩm.

[1.2] Về việc vắng mặt của một số đương sự: Tại phiên tòa phúc thẩm, một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng đã có đại diện theo ủy quyền có mặt; một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt không rõ lý do nhưng đã có quan điểm trong hồ sơ vụ án; một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt không rõ lý do nhưng việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn, kháng nghị của Viện kiểm sát nên Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt họ.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng về người tham gia tố tụng, thời điểm mở thừa kế, thời hiệu khởi kiện, diện và hàng thừa kế, phạm vi giải quyết tranh chấp.

[2.2]. Về di sản thừa kế, quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, các đương sự đều thừa nhận di sản thừa kế của cụ Đ2, cụ L để lại gồm 669,2m2 đất tại thửa số 457 tờ bản đồ số 04 tại thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng theo GCNQSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BU 425217 vào sổ số cấp GCN CH00838 ngày 05/8/2014 do UBND huyện N cấp;

01 nhà cấp bốn; 01 móng nhà gạch ba banh; 01 cây nhãn; 03 cây mít.

Đối với di sản thừa kế là 01 nhà cấp bốn, 01 móng nhà gạch ba banh, 01 cây nhãn, 03 cây mít, thực tế qua xem xét thẩm định thì 01 móng nhà, 01 nhà cấp bốn không ai sử dụng, giá trị thấp, đã hư hỏng không sử dụng nên các đương sự thống nhất không yêu cầu phân chia các tài sản này, khi phân chia vào phần đất của ai thì người đó được hưởng, nếu vào ranh giới thì rỡ bỏ.

Đối với di sản thừa kế là quyền sử dụng đất, tài liệu xem xét thẩm định tại chỗ thể hiện diện tích đất thực tế còn lại là 593,7m2 và diện tích bà H1 xây chồng lên phần diện tích đất có trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cụ Đ2, cụ L là 35,9m2, như vậy diện tích đất các hai cụ để lại thực tế chỉ là 629,6m2.; diện tích đất còn thiếu là có thể do trước đây đo vẽ thủ công chưa chính xác, do nhiều lần chuyển nhượng. Các đương sự đều không yêu cầu phần diện tích đất thiếu này.

Đối với phần đất bà Q1 xây nhà cấp bốn và phần đất bà H1 xây nhà chồng lấn sang 35,9m2 đất, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định không đủ căn cứ xác định cụ Đ2 đã cho bà Q1, bà H1 nên vẫn thuộc di sản thừa kế của cụ Đ2, cụ L để lại, từ đó chia thừa kế toàn bộ diện tích 629,6m2 đất là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[2.2]. Xét kháng cáo của bà Trần Thị Minh H1, bà Trần Thị P1, bà Trần Thị Q1 và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng:

Về di chúc đề ngày 24/4/2018 của cụ Trần Văn Đ2 lập tại UBND thị trấn Đ: Tòa án cấp sơ thẩm nhận định di chúc của cụ Đ2 đã tuân thủ đúng về nội dung và hình thức quy định tại khoản 4 Điều 628, Điều 631 BLDS 2015 là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm cũng nhận định theo nội dung di chúc thì cụ Đ2 đã tự ý xác định vị trí đất là tài sản của mình cho ba con gái là H1, P5, Phương mà không có sự đồng ý của các đồng thừa kế của cụ L. Đây là vị trí đẹp, thuận lợi và có giá trị nhất của thửa đất, phần còn lại bị méo, đa cạnh, vị trí không thuận lợi, không có lối vào. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định di chúc của cụ Đ2 chỉ có hiệu lực đối với ý nguyện phần tài sản của cụ chia làm ba cho con là H1, P5, Phương, còn vị trí chia di sản phải xác định lại là phù hợp với quy định pháp luật.

Tại đơn đề nghị đề ngày 01/10/2021, các đồng thừa kế của cụ L là bà Trần Thị V1, bà Trần Thị X, bà Trần Thị Kim H2, bà Trần Thị P1, bà Trần Thị Minh P2; anh Trần Mạnh Q2, anh Trần Văn D1, chị Trần Thị H4, chị Trần Thị H3, chị Trần Thị P3 nhường lại toàn bộ kỷ phần mà mình được hưởng cho bà Trần Thị Q1. Xét thấy yêu cầu này của các đương sự là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 08/3/2022, các bên đương sự đều thống nhất chia thừa kế bằng hiện vật làm 02 phần, phần thứ nhất thuộc quyền sử dụng của bà H1, bà P5; phần thứ hai thuộc quyền sử dụng của bà Q1. Trong đó, chia riêng kỷ phần được hưởng của bà H1, bà P5 và đảm bảo giá trị sử dụng đất đồng thời để các bên đương sự không phải thanh toán phần giá trị chênh lệch cho nhau. Hội đồng xét xử thấy việc thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện, không trái quy định pháp luật, do đó đã quyết định tạm ngừng phiên tòa để ủy thác tư pháp cho Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ xác định lại kỷ phần mỗi bên đương sự được hưởng bằng hiện vật. Ngày 16/5/2022, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ. Theo đó, hiện trạng thửa đất không có gì thay đổi so với khi xét xử sơ thẩm. Để đảm bảo giá trị sử dụng của các công trình xây dựng theo hiện trạng, đặc biệt là phần công trình xây dựng của bà H1 đã xây lấn sang một phần đất và ngôi nhà cấp 4 mà bà Q1 đã xây trên phần đất di sản, Hội đồng xét xử thấy không thể chia cho bà Q1 phần đất sát với ngõ đi (cạnh nhà bà H1) vì như vậy phải tháo dỡ phần công trình của bà H1 và ngôi nhà của bà Q1 nên sẽ xem xét chia lại kỷ phần thừa kế cho các đồng thừa kế vừa đảm bảo tinh thần di chúc của cụ Đ2, vừa đảm bảo sự thỏa thuận, nguyện vọng của các bên đương sự tại phiên tòa phúc thẩm ngày 08/3/2022 cũng như giá trị của các công trình hiện hữu, cụ thể như sau:

- Để tạo lối ngõ đi chung thì cần tạo một diện tích là 23,6m2 đất có các mốc 4a- 5-6-11c-11b-11d-11đ-11e-4a trên sơ đồ. Như vậy di sản của cụ Đ2, cụ L còn lại để chia là 629,6m2 – 23,6m2 = 606m2. Tổng giá trị di sản là 606m2 x 2.000.000 đồng/m2 (theo kết luận định giá tài sản) = 1.212.000.000 đồng, phần tài sản của mỗi cụ trị giá 606.000.000 đồng. Kỷ phần thừa kế cụ Đ2 được hưởng của cụ L là 606.000.000 đồng / 11 = 55.090.000 đồng (làm tròn). Như vậy, tổng giá trị di sản thừa kế của cụ Đ2 là 606.000.000 đồng + 55.090.000 đồng = 661.090.000 đồng. Theo di chúc của cụ Đ2 thì di sản của cụ Đ2 được chia làm ba phần cho bà H1, P5, Phương mỗi phần trị giá là 220.363.000 đồng (tương đương 110,18m2) (làm tròn).

- Trên cơ sở hiện trạng thửa đất, để đảm bảo giá trị sử dụng của phần công trình xây dựng của bà H1 (xây lấn sang đất thừa kế) và 01 nhà xây cấp 4 của bà Q1 (xây ở giữa đất), nên không thể chia đủ 110,18m2 đất cho các bà H1, P5, Phương như kỷ phần được hưởng mà chỉ có thể chia cho bà Trần Thị Minh H1 phần diện tích 100m2 đất có các mốc là 11d-11b-11a-11-12-11d trên sơ đồ và chia cho bà Trần Thị P1 phần diện tích 100m2 đất có các mốc là 11d-12-13-11e- 11đ-11d trên sơ đồ. Đối với giá trị chênh lệch kỷ phần 10,18m2 đất cần buộc bà Q1 phải thanh toán bằng tiền cho bà H1, bà P5.

- Chia cho bà Trần Thị Q1 phần diện tích 611,6m2 – 100m2 – 100m2 = 411,6m2 bao gồm các mốc 1-2-3-4-4a-11e-13-14-15-16-1 trên sơ đồ.

- Phần di sản của cụ L để lại trị giá là 606.000.000 đồng, mỗi kỷ phần được nhận trị giá là 55.090.000 đồng (làm tròn). Do đó, chị Trần Thị Y được hưởng thừa kế thế vị của ông Trần Văn B là ½ kỷ phần của ông B trị giá 27.545.000 đồng. Chị Trần Thị T1 được hưởng thừa kế thế vị của ông Trần Văn T2 là ¼ kỷ phần của ông Tuấn trị giá là 13.772.500 đồng.

Do chị Yến không nhường kỷ phần thừa kế được hưởng cho bà Q1, còn chị Thu đang ở nước ngoài không liên hệ được và không biết ý kiến của chị Thu nên cần buộc bà Trần Thị Q1 có trách nhiệm thanh toán chị Trần Thị Y số tiền là 27.545.000 đồng, thanh toán cho chị Trần Thị T1 số tiền là 13.772.500 đồng. Phần giá trị thừa kế chị Trần Thị T1 được hưởng sẽ căn cứ vào hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2017/HĐTPTANDTC ngày 05 tháng 5 năm 2017 và Án lệ số 04/2016/AL của Tòa án nhân dân tối cao để giao cho chị Trần Thị H4 chị em ruột của chị Thu quản lý.

[3]. Từ những phân tích, nhận định nêu trên, HĐXX có cơ sở chấp nhận một phần kháng cáo của bà Trần Thị Minh H1, bà Trần Thị Q1, bà Trần Thị P1, chấp nhận một phần kháng nghị phúc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, sửa bản án sơ thẩm theo hướng đã phân tích nêu trên.

[4]. Về án phí: Do Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm nên sẽ xác định lại án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bà Trần Thị Q1 do là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí.

Do kháng cáo được chấp nhận một phần nên các đương sự không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308; Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn là bà Trần Thị Minh H1, bị đơn là bà Trần Thị Q1, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị P1; Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng; Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 36/2020/DS-ST ngày 04/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng như sau:

Áp dụng khoản 5 Điều 26, Điều 37, Điều 39, khoản 2 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 623, 625, 630, 635, 636, 643, 650, 651, 652, 660 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Nghị quyết số 04/2017/HĐTPTANDTC ngày 05/5/2017 và Án lệ số 06/2016/AL của Tòa án nhân dân tối cao. Xử:

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Lê Thị L theo pháp luật, chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn về chia di sản thừa kế của cụ Trần Văn Đ2 theo di chúc:

- Chia cho bà Trần Thị Minh H1 được quyền sử dụng diện tích 100m2 đất bao gồm các mốc 11d-11b-11a-11-12-11d, tại thửa số 457, tờ bản đồ số 04 tại Tổ dân phố Thắng Lợi, thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng, thể hiện trên sơ đồ kèm theo bản án.

- Chia cho bà Trần Thị P1 được quyền sử dụng diện tích 100m2 đất bao gồm các mốc 11d-12-13-11e-11đ-11d tại thửa số 457, tờ bản đồ số 04 tại Tổ dân phố Thắng Lợi, thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng, thể hiện trên sơ đồ kèm theo bản án.

- Chia cho bà Trần Thị Q1 được quyền sử dụng diện tích 411,6m2 đất bao gồm các mốc 1-2-3-4-4a-11e-13-14-15-16-1 trên sơ đồ kèm theo bản án tại thửa số 457 tờ bản đồ số 04 tại Tổ dân phố Thắng Lợi, thị trấn Đ, huyện N, thành phố Hải Phòng, thể hiện trên sơ đồ kèm theo bản án.

- Bà Trần Thị Q1 có trách nhiệm thanh toán chị Trần Thị Y số tiền là 27.545.000 đồng, thanh toán cho chị Trần Thị T1 số tiền là 13.772.500 đồng. Tạm giao cho chị Trần Thị H4 quản lý cho chị Trần Thị T1 số tiền là 13.772.500 đồng.

- Các bà Trần Thị Minh H1, Trần Thị P1, Trần Thị Q1 có quyền sử dụng lối ngõ đi chung diện tích 23,6m2 có các mốc 4a-5-6-11c-11b-11d-11đ-11e-4a thể hiện trên sơ đồ kèm theo bản án.

Bà Trần Thị Q1 phải thanh toán cho bà Trần Thị Minh H1, bà Trần Thị P1 giá trị kỷ phần chênh lệch tương đương diện tích 10,18m2 đất (làm tròn), mỗi bà là 20.360.000 đồng.

Kể từ ngày bà Trần Thị Minh H1, bà Trần Thị P1, chị Trần Thị Y, chị Trần Thị T1 có đơn yêu cầu thi hành án đối với khoản tiền mà bà Trần Thị Q1 có trách nhiệm thanh toán cho bà H1, bà P1, chị Y, chị T1, cho đến khi thi hành án xong, bà Trần Thị Q1 còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357; Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Về án phí:

- Án phí sơ thẩm:

Bà Trần Thị Minh H1 phải chịu 11.018.150 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0003023 ngày 19/9/2019 là 1.070.000 đồng và số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0002762 ngày 19/7/2019 là 300.000 đồng của Chi cục thi hành án dân sự huyện N, thành phố Hải Phòng. Bà H1 còn phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm là 9.648.150 đồng.

Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bà Trần Thị Q1 do là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí.

Bà Trần Thị P1 phải chịu 11.018.150 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 1.170.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003022 ngày 19/9/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện N, thành phố Hải Phòng. Bà P5 còn phải nộp số tiền án phí là 9.848.150 đồng.

Chị Trần Thị Y phải chịu 1.377.250 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Chị Trần Thị T1 phải chịu 688.650 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Án phí phúc thẩm:

Bà Trần Thị Minh H1, bà Trần Thị Q1, bà Trần Thị P1 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Trả lại cho bà Trần Thị Minh H1 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0019021 ngày 09/10/2020 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng.

Trả lại cho bà Trần Thị P1 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0019022 ngày 09/10/2020 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp chia di sản thừa kế số 182/2022/DS-PT

Số hiệu:182/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về