Bản án về tội trộm cắp tài sản, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 552/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 552/2023/HS-ST NGÀY 27/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN, TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 27 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 785/2023/HSST ngày 16/10/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5175/2023/QĐXXST-HS ngày 07/11/2023, đối với các bị cáo:

1. Trần Văn D; giới tính: Nam; sinh năm 1990, tại tỉnh Nghệ An; nơi đăng ký thường trú: xóm T, xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An; chỗ ở: A Đường số A, Phường D, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: làm thuê; con ông: Trần Văn M, sinh năm 1968 và bà: Trần Thị H, sinh năm 1971; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không;

Bị bắt, tạm giam từ ngày 02/3/2021. Có mặt.

2. Trương Văn K; giới tính: nam; sinh năm 1992, tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; nơi đăng ký thường trú: 54/49/1 H, Phường A, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; chỗ ở: H B, Phường A, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên Chúa; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: tài xế; con ông: Trương Văn T, sinh năm 1960 và bà: Trương Thị S, sinh năm 1962; vợ: Bùi Thị H1, sinh năm 1996; con: có 02 người, lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: không Bị bắt, tạm giam từ ngày 02/3/2021. Có mặt.

3. Nguyễn Tiến L; giới tính: nam; sinh năm 1987, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: 39C/410 chung cư H, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên Chúa;

trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: buôn bán; con ông: Nguyễn Quang T1 (chết) và bà: Nguyễn Thị L1, sinh năm 1953; vợ, con: chưa có;

- Nhân thân:

+ Ngày 24/8/2001, bị Công an quận T bắt đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (Theo Quyết định số 487 ngày 16/8/2021 của Ủy Ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh);

+ Ngày 30/12/2004, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (Bản án số 2186/HSST);

+ Ngày 27/3/2007, bị Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (Bản án số 50/HSST);

+ Ngày 13/7/2012, bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (Bản án số 187/HSST);

+ Ngày 03/7/2018, bị Công an quận Tân Bình bắt đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc do có hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”;

+ Năm 2018, bị Công an quận Tân Bình xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ, cất giấu trong người các loại dao nhằm mục đích gây thương tích cho người khác”.

- Tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 02/3/2021. Có mặt.

4. Phan Minh L2; giới tính: nam; sinh năm 1969, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: số B đường A, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn:

5/12; nghề nghiệp: không; con ông: Trần Minh T2 (chết) và bà: Phan Thị G, sinh năm 1935; vợ: Trần Thị Ái T3, sinh năm 1973; con: có 01 người, sinh năm 1994;

- Nhân thân:

+ Ngày 22/01/1987, bị Công an quận Tân Bình bắt về hành vi “Trộm cắp tài sản của công dân”, qua xác minh không ghi nhận việc bắt giữ và hình thức xử lý.

+ Ngày 12/5/1990, Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” (Bản án số 90/HSST).

+ Ngày 14/6/1998, bị Công an quận Tân Bình bắt về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, qua xác minh không ghi nhận việc bắt giữ và hình thức xử lý.

+ Ngày 17/5/1999, Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 15 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản của công dân” (Bản án số 144/HSST).

- Tiền án:

+ Ngày 26/12/2012, Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 447/HSST).

+ Ngày 27/7/2015, Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 194/HSST).

- Tiền sự: không.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 01/10/2021. Có mặt.

5. Lê Minh S1; giới tính: nam; sinh năm 1966, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: số B đường H, Phường D, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn:

02/12; nghề nghiệp: không; con ông: Lê Văn V (chết) và bà: Lê Thị L3 (chết); vợ, con: chưa có;

- Nhân thân:

+ Ngày 16/5/2000, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 năm tù về tội “Môi giới mại dâm” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (bản án số 1692/HSST);

+ Ngày 18/11/2021, Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (Bản án số 101/2021/HSST). Đang chấp hành án tại Trại giam P, tỉnh Tiền Giang.

- Tiền án: Ngày 26/02/2014, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 08 năm 06 tháng tù về tội “Môi giới mại dâm” (Bản án số 41/2014/HSST).

- Tiền sự: không.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 12/3/2021 (trong vụ án tại bản án 101/2021/HSST ngày 18/11/2021 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh). Có mặt.

6. Nguyễn Vương V1; giới tính: nam; sinh năm 1974, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: 2 L, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: G Đường số A, khu phố B, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên Chúa; trình độ học vấn:

10/12; nghề nghiệp: không; con ông: Trần Kim A, sinh năm 1952 và bà: Nguyễn Thị T4, sinh năm 1958; vợ: Lê Thị T5, sinh năm 1980; con: có 01 người, sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 29/9/2021. Có mặt.

Bị hại:

1. Bà Hà Thị L4, sinh năm 1993; nơi cư trú: A B, Phường C, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt.

2. Bà Nguyễn Thị Kim H2, sinh năm 1991; nơi cư trú: số G Đ, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt.

Người bào chữa:

1. Ông Lê Văn C - Luật sư thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa chỉ định cho bị cáo Nguyễn Tiến L. Có mặt.

2. Ông Trịnh Bá T6 - Luật sư thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa chỉ định cho các bị cáo Trương Văn K và bị cáo Trần Văn D. Có mặt.

3. Ông Huỳnh Trọng N, Luật sư thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa chỉ định cho bị cáo Phan Minh L2. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Bùi Thị H1, sinh năm 1996; nơi cư trú: 1 T, phường B, Q, Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt.

2. Bà Nguyễn Thị Tuyết T7, sinh năm 1994; nơi cư trú: 17/18/15/22/30/6 L, khu phố I, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các đương sự: Ông Nguyễn Mạnh L5 - Luật sư thuộc công ty L6 và cộng sự, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại Hà Thị L4. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2018, Trần Văn D là nhân viên Công ty TNHH “PHVINA”, địa chỉ nhà số A B, Phường C, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh, do chị Hà Thị L4 làm giám đốc, nên D biết rõ gia đình chị L4 tại địa chỉ trên có nhiều tài sản. Khoảng giữa tháng 12/2020, D gặp Trần Đình T8 (bạn cùng quê ở Nghệ An) và nói cho T8 biết việc nhà chị L4 có nhiều tài sản thì T8 rủ D đến nhà chị L4 trộm cắp tài sản, D đồng ý. Đến khoảng 13 giờ ngày 21/12/2020, T8 điện thoại rủ Trương Văn K và Phan Minh L2 đi trộm cắp tài sản, K và L2 đồng ý.

Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, K điều khiển xe ô tô KIA - CERATO màu xanh, biển số 51H-734.54 chở L2 đến nhà của Nguyễn Tiến L, địa chỉ C chung cư H, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, để rủ L cùng đi trộm cắp tài sản. Sau đó, K, L2, L, D, T8 và Q (bạn của T8, không rõ lai lịch) gặp nhau tại quán lẩu dê thuộc phường L, thành phố T, tỉnh Bình Dương để bàn bạc, phân công nhiệm vụ. T8 phân công D có nhiệm vụ mô tả căn nhà, vị trí lắp đặt camera. K, L2, Q, L là người trực tiếp vào trong nhà lấy trộm; D và T8 đứng cảnh giới lực lượng tuần tra của dân phòng và Công an P1, quận G và K còn có nhiệm vụ chở cả nhóm đi đến nhà chị L4 lấy trộm và chở cả nhóm tẩu thoát.

Sau khi bàn bạc, đến khoảng 02 giờ ngày 22/12/2020, tất cả về nhà của L2, số 338/26 (số cũ 76) đường Â, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, L2 phát khẩu trang y tế, găng tay cho mỗi người. Sau đó, L2 dùng băng keo đen cắt dán thay đổi biển số xe từ số 3 thành số 8 của biển số 51H-734.54 của K, thành biển số 51H-784.54.

Khoảng 03 giờ 20 phút ngày 22/12/2020, K điều khiển xe ô tô trên chở L2, L, Q đến nhà của chị L4, còn T8 và D đi bộ đến Công viên đối diện nhà số A N, Phường C, quận G để đứng cảnh giới. Khi đến nhà chị L4, L2 và Q mở cửa cuốn phía sau lên rồi cùng với L vào bên trong nhà khiêng trộm két sắt và 01 máy tính xách tay hiệu ASUS lên xe ôtô, K cũng xuống xe cùng khiêng phụ két sắt để lên xe. Sau đó, L ngồi phía trước, L2 và Q ngồi sau giữ két sắt. Sau khi có két sắt, chưa biết phải chở đi đâu, L2 gọi điện thoại cho Lê Minh S1 hỏi có muốn lấy két sắt không, S1 nói cứ chở qua nhà của Nguyễn Vương V1, S1 và Vũ chờ ở nhà của V1. K điều khiển xe ô tô chở L2, Q, L, còn T8 điều khiển xe máy đến gặp Lê Minh S1 tại nhà của Nguyễn Vương V1, địa chỉ số G đường A, phường B, quận B. Khi đến nơi, thì S1 và V1 đứng đợi phía trước nhà. L2 nói K lùi xe vào hẻm cạnh nhà, sau đó L2, Q, S1 và V1 cùng khiêng két sắt vào nhà, còn L và K đứng bên ngoài chờ. Sau đó, L2 dùng xà beng, tua vít và búa để đục két sắt. Khi két sắt bung ra, L2 thấy bên trong có tiền Đô la Mỹ, tiền Việt Nam, 01 sợi dây chuyền và 01 số giấy tờ. S1 lấy tiền bỏ vào túi nylon đưa cho L2 cầm, sợi dây chuyền thì L cất vào túi áo. L2 lấy số tiền 20.000.000 đồng đưa cho V1 rồi L2 ôm túi nylon đựng tiền ra xe của K, L2 đưa K 10.000 USD. Sau đó, L, Q và S1 đi ra xe ô tô của K. Lúc này, K điện thoại thông báo T8 chạy xe máy đi ra Vũng Tàu để gặp nhau cùng chia số tiền vừa trộm được. Khi đến Vũng Tàu, K đem xe đến ga-ra xe ở Vũng Tàu (không nhờ địa chỉ) gửi rồi cả nhóm đón taxi đến nhà của bạn K (không nhớ địa chỉ) để chờ T8 đến chia tiền. Tại đây, L mở túi nylon tiền ra đếm thì T8 đến. T8 lấy tiền chia cho K 50.000.000 đồng, L, L2 và Q (gồm cả tiền Đô la Mỹ) mỗi người 150.000.000 đồng, S1 110.000.000 đồng. Còn T8 lấy 4 phần gồm 600.000.000 đồng. Theo lời khai các bị can, T8 lấy 4 phần để chia cho T8, D và 02 người nào đó mà nhóm chỉ nghe T8 nói là ở Công ty “PHVINA”. Riêng 01 sợi dây chuyền và 01 máy tính xách tay hiệu ASUS thì Nguyễn Tiến L cất giữ.

Đến 10 giờ ngày 22/12/2020, chị Hà Thị L4 đến trình báo Công an P1, quận G và khai tài sản bị mất trộm gồm: 01 sợi dây chuyền vàng 18K khối lượng 1,5 chỉ kiểu mắt xích, mặt dây chuyền hình quả cầu; số tiền 563.656.000 đồng (có sổ thu nhập từ ngày 01/12/2020 đến ngày 21/12/2020); số tiền ngoại tệ gồm 63.272 USD (Đôla M); 2.900 CAD (Đôla C); 3.000 AUD (Đôla Ú) (có hóa đơn giao nhận từ ngày 01/12/2020 đến ngày 22/12/2020, chị L4 xuất ra để đổi tiền Việt Nam); 01 giấy phép kinh doanh của Công ty TNHH “PHVINA” do chị L4 đứng tên; 01 giấy phép kinh doanh của Công ty TNHH - “BamBoo” do chị L4 đứng tên; 01 sổ hộ khẩu đứng tên chủ hộ là ông Hà Đức T9 (Ba của chị L4) và 01 sổ hộ khẩu đứng tên chủ hộ là ông Bùi Đức S2 (Ba chồng của chị L4).

Theo Công văn số 746/HCM-QLNHV ngày 23/3/2021 của Ngân hàng N1 - Chi nhánh Thành phố H công bố tỷ giá của Đ với Đô la Mỹ, Đô la Ú và Đô la Canada vào ngày 22/12/2020 như sau:

- Số tiền 63.272 USD (Đô la M), tương đương 1.464.999.888 đồng;

- Số tiền 2.900 CAD (Đôla C), tương đương 52.857.633 đồng;

- Số tiền 3.000 AUD (Đôla Ú), tương đương 52.409.400 đồng;

Theo Kết luận định giá tài sản số 1286/KL-HĐĐGTS ngày 04/3/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- 01 sợi dây chuyền vàng 18K khối lượng 1,5 chỉ kiểu mắt xích trị giá 6.000.450 đồng;

- 01 két sắt hiệu G&H.BAUCHE trị giá 900.000 đồng;

- 01 Máy tính xáy tay hiệu ASUS trị giá 8.000.000 đồng.

Qua truy xét, ngày 02/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh ra Lệnh bắt người bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Trương Văn K, Trần Văn D và Nguyễn Tiến L.

Ngày 01/10/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh ra Lệnh bắt người bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Phan Minh L2.

Ngày 22/9/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H ra Quyết định khởi tố bị can và ra Lệnh bắt tạm giam đối với Nguyễn Văn V2, ra Quyết định khởi tố bị can và Lệnh tạm giam đối với Lê Minh S1.

Qua khám xét nhà số G, Đường A, phường B, quận B do Nguyễn Vương V1 làm chủ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh thu giữ 01 két sắt hiệu G&H.BAUCHE bị đục hư phần cánh cửa.

Qua truy xét, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh thu giữ chiếc xe ô tô KIA-CERATO màu xanh, biển số 51H-734.54 của Trương Văn K.

Quá trình điều tra, Trương Văn K thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và khai sau khi lấy trộm tài sản tại nhà chị L4 xong, K được chia số tiền 10.000 USD và 50.000.000 đồng. Sau đó, K đưa cho Bùi Thị H1 (vợ K) số tiền 10.000 USD (100 tờ mệnh giá 100 USD) để trong túi nylon màu đen, chị H1 có hỏi nguồn gốc số tiền nhưng K không nói. Đồng thời, K lấy điện thoại Iphone 11 của chị H1 và dùng số tiền này để đối lấy điện thoại Iphone 12 ProMax 256Gb cho chị H1. Chị H1 không biết số tiền K đưa và tiền K dùng để đổi điện thoại cho chị H1 là tiền K có được do phạm tội mà có. Sau khi sự việc xảy ra, chị H1 đã giao nộp số tiền 10.000 USD và điện thoại Iphone 12 ProMax 256Gb. Lời khai của K phù hợp lời khai của chị H1.

Phan Minh L2 khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Đồng thời, L2 khai sau khi phá két sắt, L2 lấy số tiền 20.000.000 đồng trong két đưa cho V1. Khi đến Vũng Tàu chia tiền, K được chia 50.000.000 đồng; L2, Q, L mỗi người 150.000.000 đồng. T8 lấy 04 phần là 600.000.000 đồng gồm chia cho T8, D và 02 người không biết là ai, chỉ nghe T8 nói ở Công ty chị L4. Trong lúc chia tiền, do đưa cho S1 ít nên S1 la lối và đòi báo Công an, nên mọi người gom số tiền 110.000.000 đồng để L2 đưa cho S1. Riêng chiếc máy tính xách tay hiệu ASUS và sợi dây chuyền thì L cất giữ.

Trần Văn D thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và khai sau khi lấy trộm tài sản tại nhà chị L4 xong, khoảng 17 giờ ngày 23/12/2020, Trần Đình T8 điện thoại cho D nói “phần của bác cầm đây rồi, được 60.000.000 đồng”. Khoảng 07 ngày sau (vào đầu tháng 01/2021), T8 đưa D 20.000.000 đồng, T8 còn giữ 40.000.000 đồng của D, số tiền 20.000.000 đồng trên D đã tiêu xài cá nhân hết.

Nguyễn Tiến L khai nhận hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên, L khai chỉ được T8 chia số tiền 50.000.000 đồng. Đối với chiếc máy tính xách tay hiệu ASUS, lúc vào nhà lấy trộm, Q đưa cho L cầm đi ra xe của K, khi đến Vũng Tàu, trong lúc mọi người đang chia tiền thì L đưa lại cho Q. Riêng sợi dây chuyền, L khai không cất giữ mà gom vào túi nylon đựng tiền của L2.

Lê Minh S1 khai khi xe ô tô của nhóm L2 đến, V1 mở cửa sau cho xe ô tô lùi vào, S1 nhìn thấy L2, L, K, Q khiêng két sắt vào nhà. L2 dùng cây đục cạy cánh cửa két sắt bung ra. Khi két sắt bung ra S1 thấy bên trong két có tiền Đô la Mỹ, tiền Việt Nam đồng. L2 lấy tiền bỏ vào túi nylon, L2 lấy trong số tiền trên đưa cho V1 20.000.000 đồng và nói lấy uống cà phê. Sau đó L2, L cùng Q, K ra xe ô tô chạy đi, còn S1 về nhà. Khoảng 20 giờ ngày 23/12/2020, L2 dùng 20.000.000 đồng lấy trong két sắt dẫn S1 đi nhậu, ngoài ra không có chia tiền cho S1. Tuy nhiên, căn cứ lời khai của L2, L, K xác định việc S1 có cùng đi theo nhóm của K ra Vũng Tàu để chia tiền. Trong lúc chia tiền, S1 thấy được chia tiền ít nên la lối và đòi trình báo công an. Lúc này, Lương gom thêm tiền của mọi người được 110.000.000 đồng đưa cho S1.

Nguyễn Vương V1 khai khi nhóm L2 đến nhà V1, V1 xuống mở cửa để nhóm của L2 khiêng két sắt vào trong nhà. Sau khi phá két sắt, L2 đã lấy số tiền 20.000.000 đồng trong két sắt đưa cho V1.

Vật chứng: có bảng kê vật chứng kèm theo.

Về dân sự: Chị Hà Thị L4 xác định tài sản bị mất có tổng trị giá 2.100.000.000 đồng. Hiện chị L4 nhận lại số tiền 10.000 USD (do Bùi Thị H1, là vợ của Trương Văn K giao nộp). Chị L4 yêu cầu bồi thường số tiền 1.870.000.000 đồng. Riêng chiếc máy tính xách tay hiệu ASUS của chị Nguyễn Kim H2 (là nhân viên Công ty chị L4), chị H2 yêu cầu bồi thường số tiền 6.000.000 đồng. Hiện các bị cáo chưa bồi thường.

Tại bản Cáo trạng số: 499/CT-VKS-P2 ngày 25/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

- Trần Văn D, Trương Văn K, Nguyễn Tiến L, Phan Minh L2, về tội “Trộm cắp đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Lê Minh S1, về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo điểm b khoản 3 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Nguyễn Vương V1, về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo điểm d khoản 2 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, từ đó giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm a khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 + Xử phạt bị cáo Trần Văn D từ 16 năm tù đến 18 năm tù;

+ Xử phạt bị cáo Trương Văn K từ 15 năm tù đến 17 năm tù;

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến L từ 15 năm tù đến 17 năm tù; Về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm a, h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phan Minh L2 từ 17 năm tù đến 19 năm tù, về tội “Trộm cắp đoạt tài sản”.

- Áp dụng b khoản 3 Điều 323; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lê Minh S1 từ 08 năm tù đến 09 năm tù, về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tổng hợp với hình phạt 10 năm tù tại bản án số 101/2021/HSST ngày 18/11/2021 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Vương V1 từ 03 năm tù đến 04 năm tù, về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

- Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc các bị cáo Trần Văn D, Trương Văn K, Nguyễn Tiến L, Phan Minh L2 liên đới bồi thường cho bị hại Hà Thị L4 số tiền 1.870.000.000 đồng, cho bị hại Nguyễn Thị Kim H2 số tiền 6.000.000 đồng; buộc bị cáo Lê Minh S1 nộp lại số tiền thu lợi bất chính 110.000.000 đồng, bị cáo Nguyễn Vương V1 nộp lại số tiền thu lợi bất chính 20.000.000 đồng.

- Về vật chứng của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 xử lý theo quy định pháp luật.

Luật sư Trịnh Bá T6 bào chữa cho bị cáo Trần Văn D và Trương Văn K: Đồng ý về tội danh, điều, khoản truy tố các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”, không đồng ý về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội có tổ chức” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, vì các bị cáo không có người chủ mưu, không có cấu kết chặt chẽ, không phân công nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể, mà chỉ đơn giản là bàn bạc cùng nhau đi trộm cắp tài sản, do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại tình tiết này cho các bị cáo. Bị cáo K đã nộp lại số tiền 10.000 USD, 01 điện thoại di động Iphone 12 Pro max để khắc phục hậu quả, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bên cạnh đó, hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt các bị cáo D và K là quá cáo, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo mức án phù hợp.

Luật sư Lê Văn C bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tiến L: Cáo trạng chưa làm rõ số tiền mà các bị cáo trộm cắp được, và so với số tiền mà bị hại Hà Thị L4 trình báo là có sự chênh lệch rất lớn, có sự mâu thuẫn, nên đề nghị Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung làm rõ số tiền các bị cáo trộm cắp, xác định được số tiền để truy tố đúng khung hình phạt cho các bị cáo.

Luật sư Huỳnh Trọng N bào chữa cho bị cáo Phan Minh L2: Cáo trạng chưa điều tra, làm rõ sự chênh lệch, mâu thuẫn giữa số tiền các bị cáo trộm cắp được và số tiền bị hại Hà Thị L4 trình bào, đề nghị Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung để làm rõ mâu thuẫn trên.

Luật sư Nguyễn Mạnh L5 bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại Hà Thị L4: đề nghị Hội đồng xét xử đồng ý với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về phần bồi thường thiệt hại cho bà Hà Thị L4, còn về phần hình phạt dành cho các bị cáo thì Hội đồng xét xử xử lý theo quy định pháp luật.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát và trong lời nói sau cùng các bị cáo đã ăn năn, hối cải về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Trần Văn D, Trương Văn K, Nguyễn Tiến L, Phan Minh L2, Lê Minh S1 và Nguyễn Vương V1 không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo Trần Văn D, Trương Văn K, Nguyễn Tiến L, Phan Minh L2, Lê Minh S1 và Nguyễn Vương V1 tại phiên tòa cũng như các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định:

Để có tiền tiêu xài, ngày 22/12/2020, Trần Đình T8, Trần Văn D, Trương Văn K, Phan Minh L2, Nguyễn Tiến L cùng đối tượng tên Q (không rõ lai lịch) cùng bàn bạc, phân công nhiệm vụ để trộm cắp tài sản của chị Hà Thị L4 tại Công ty TNHH “PHVINA”, địa chỉ số A B, Phường C, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó, D có nhiệm vụ mô tả hiện trạng căn nhà của chị L4 cho nhóm biết và cùng T8 làm nhiệm vụ cảnh giới. L2, L, Q có nhiệm vụ trực tiếp đột nhập vào nhà chị L4 để lấy tài sản. K có nhiệm vụ dùng xe ô tô biển số 51H-734.54 chở cả nhóm đi lấy trộm và tẩu thoát. Tài sản các bị cáo lấy trộm gồm 1 két sắt, bên trong có 01 sợi dây chuyền, số tiền 563.656.000 đồng, 63.272 USD (Đô la M) - tương đương 1.464.999.888 đồng, 2.900 CAD (Đôla C) - tương đương 52.857.633 đồng, 3.000 AUD (Đôla Ú) - tương đương 52.409.400 đồng, 01 máy tính xách tay hiệu ASUS. Tổng trị giá tài sản là 2.028.655.888 đồng. Sau khi nhóm của L2 lấy trộm tài sản của chị L4 xong, bị cáo L2 liên lạc với bị cáo Lê Minh S1 để cả nhóm đem két sắt đến nhà của Nguyễn Vương Vũ p két sắt. Tại nhà V1, khi nhóm của L2 phá két sắt xong, L2 đã lấy trong số tiền vừa trộm đưa cho V1 20.000.000 đồng và S1 được chia số tiền 110.000.000 đồng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo S1 không thừa nhận mình được chia số tiền 110.000.000 đồng, mà chỉ được bị cáo L2 dẫn đi ăn nhậu, nhưng căn cứ vào lời khai của các bị cáo K, L2, L cùng những tài liệu, chứng cứ thu thập được đủ cơ sở kết luận: bị cáo S1 trực tiếp đi Vũng Tàu cùng các bị cáo khác để chia tiền, tại đây bị cáo được chia 20.000.000 đồng nhưng không đồng ý, bị cáo chê ít và dọa sẽ báo công an nên các bị cáo khác đành gom lại và chia cho bị cáo S1 số tiền 110.000.000 đồng.

Hành vi trên của các bị cáo Trần Văn D, Trương Văn K, Phan Minh L2, Nguyễn Tiến L đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, thuộc trường hợp “Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên”, là tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

Hành vi trên của các bị cáo Lê Minh S1 và Nguyễn Vương V1 đã phạm vào tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, đối với bị cáo Lê Minh S1 được nhận số tiền 110.000.000 đồng, thuộc trường hợp “Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng”, là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 323 Bộ luật hình sự; đối với bị cáo Nguyễn Vương V1 nhận được số tiền 20.000.000 đồng, thuộc trường hợp “Thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng”, là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 323 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

Do đó, Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo Trần Văn D, Trương Văn K, Nguyễn Tiến L, Phan Minh L2 là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội; hành vi phạm tội của các bị cáo Lê Minh S1, Nguyễn Vương V1 là rất nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Trong vụ án trộm cắp tài sản, các bị cáo Trần Văn D, Trương Văn K, Nguyễn Tiến L, Phan Minh L2 bàn bạc, cấu kết với nhau để thực hiện hành vi phạm tội, phân công nhiệm vụ từng bị cáo cụ thể, rõ ràng và số tiền chia cho các bị cáo cũng tương ứng, phù hợp với vai trò cụ thể của từng người, nên thuộc trường hợp “Phạm tội có tổ chức”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo D có vai trò là người chủ mưu, cùng với T8 (chưa bắt được) rủ rê, lôi kéo, chỉ huy, phân công nhiệm vụ cho các bị cáo khác, nên hình phạt dành cho bị cáo D phải nghiêm khắc hơn; các bị cáo K, L2, L tham gia đồng phạm với vai trò giúp sức tích cực, trực tiếp thực hiện tội phạm, nên hình phạt dành cho các bị cáo này phù hợp với tính chất, vai trò cũng như xét đến nhân thân của từng bị cáo. Ngoài ra, các bị cáo Phan Minh L2 và Lê Minh S1 đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này của các bị cáo được xác định là “Tái phạm nguy hiểm”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo đã thành niên, có các bị cáo đã bị kết án nhiều lần, nên nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình sẽ bị pháp luật trừng trị, nhưng chỉ vì tham lam, lười lao động mà các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội đã bất chấp hậu quả, xem thường pháp luật, nên cần có mức án nghiêm khắc đối với các bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tính tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

+ Bị cáo Trần Văn D, Trương Văn K, Nguyễn Tiến L bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội có tổ chức” theo quy định điểm a khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

+ Bị cáo Phan Minh L2 bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội có tổ chức” và “Tái phạm nguy hiểm” theo điểm a, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

+ Bị cáo Lê Minh S1 bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Trần Văn D, Trương Văn K, Nguyễn Tiến L, Phan Minh L2, Nguyễn Vương V1 thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Gia đình bị cáo K đã nộp lại một phần tài sản trộm cắp được, là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo K theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

- Chị Hà Thị L4 xác định tài sản bị mất có tổng trị giá là 2.100.000.000 đồng. Hiện chị L4 nhận lại số tiền 10.000 USD (do Bùi Thị H1, là vợ của Trương Văn K giao nộp). Chị L4 yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 1.870.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy trị giá tài sản mà chị L4 trình báo trùng với tài sản mà các bị cáo chia nhau, trong đó có cả 04 phần mà T8 (chưa bắt được) lấy đi trị giá tương đương 600.000.000 đồng (150.000.000 đồng/phần), nên có cơ sở chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại của chị L4, buộc các bị cáo Trần Văn D, Trương Văn K, Nguyễn Tiến L, Phan Minh L2 liên đới bồi thường cho chị Hà Thị L4 số tiền 1.870.000.000 đồng.

- Chị Nguyễn Thị Kim H2 yêu cầu các bị cáo bồi thường trị giá chiếc máy tính xách tay hiệu ASUS là 6.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của chị H2 là có cơ sở, nên buộc các bị cáo Trần Văn D, Trương Văn K, Nguyễn Tiến L, Phan Minh L2 phải liên đới bồi thường cho chị Nguyễn Thị Kim H2 số tiền 6.000.000 đồng.

- Buộc bị cáo Lê Minh S1 nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 110.000.000 để tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Buộc bị cáo Nguyễn Vương V1 nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 20.000.000 đồng để tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Lập luận nêu trên của Hội đồng xét xử là căn cứ để chấp nhận hay không chấp nhận quan điểm bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các luật sư bào chữa cho các bị cáo và luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại.

[5] Về vật chứng:

- 01 két sắt hiệu G&H.BAUCHE; 01 cánh cửa két sắt hiệu Alpha; 01 két sắt hiệu STYLE OF KOREA bị đục hư; 01 đôi dép màu đen (không rõ hiệu); 01 viên gạch ống màu đỏ, kích thước 18x8x8 cm và 01 cây kéo bằng kim loại dài 27 cm, là những vật không có giá trị và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Chiếc xe ô tô hiệu KIA-CERATO biển số 51H – 734.54, qua xác minh xe trên do chị Nguyễn Lê Tuyết T10, là chị dâu của bị cáo Trương Văn K, đứng tên chủ sở hữu. Chị T10 khai xe trên của K mua và nhờ chị T10 đứng tên chủ sở hữu dùm cho K. Lời khai trên của chị T10 cũng phù hợp với lời khai của bị cáo K, nên Hội đồng xét xử có cơ sở khẳng định chiếc xe trên thuộc quyền sở hữu của bị cáo K. Bị cáo K dùng xe làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo F9, màu đỏ, số imei 866376044513130 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu đen, số imei 353161110211664 thu giữ của bị cáo K, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo K dùng điện thoại di động hiệu Oppo F9 vào việc phạm tội nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước; đối với điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu đen, bị cáo không dùng vào việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- 01 điện thoại di động Iphone 12 Promax do chị Bùi Thị H1, là vợ bị cáo K giao nộp. Nguồn gốc chiếc điện thoại trên là do bị cáo K dùng tiền bán chiếc điện thoại di động của chị H1, cộng với bị cáo bỏ ra số tiền 20.000.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có, mua được và cho chị H1. Tại phiên tòa chị H1 tự nguyện cho bị cáo K phần tiền của mình trong trị giá của chiếc Iphone 12 Promax trên, Hội đồng xét xử ghi nhận. Xét thấy cần giao cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền bán đấu giá chiếc điện thoại di động Iphone 12 Promax, số tiền thu được sẽ cấn trừ vào khoản tiền mà bị cáo K phải bồi thường thiệt hại.

[5] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự, dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173; a khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt: bị cáo Trần Văn D 16 (mười sáu) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 02/3/2021.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Tiến L 15 (mười lăm) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 02/3/2021.

- Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173; điểm a, h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt: bị cáo Phan Minh L2 16 (mười sáu) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 01/10/2021.

- Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173; a khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt: bị cáo Trương Văn K 14 (mười bốn) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 02/3/2020.

- Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 323; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 và Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt: bị cáo Lê Minh S1 07 (bảy) năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tổng hợp hình phạt trên với hình phạt 10 năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tại bản án số 101/2021/HSST ngày 18/11/2021, Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/3/2021.

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt: bị cáo Nguyễn Vương V1 03 (ba) năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời hạn tù tính từ ngày 29/9/2022.

- Căn cứ vào Điều 46 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 Buộc các bị cáo Trần Văn D, Trương Văn K, Nguyễn Tiến L và Phan Minh L2 liên đới bồi thường cho bà Hà Thị L4 số tiền 1.870.000.000 (một tỷ tám trăm bảy mươi triệu) đồng, cụ thể mỗi bị cáo phải bồi thường số tiền như sau:

+ Trần Văn D bồi thường số tiền 467.500.000 (bốn trăm sáu mươi bảy triệu năm trăm ngàn) đồng.

+ Trương Văn K bồi thường số tiền 467.500.000 (bốn trăm sáu mươi bảy triệu năm trăm ngàn) đồng.

+ Nguyễn Tiến L bồi thường số tiền 467.500.000 (bốn trăm sáu mươi bảy triệu năm trăm ngàn) đồng.

+ Phan Minh L2 bồi thường số tiền 467.500.000 (bốn trăm sáu mươi bảy triệu năm trăm ngàn) đồng.

Buộc các bị cáo Trần Văn D, Trương Văn K, Nguyễn Tiến L và Phan Minh L2 liên đới bồi thường cho bà Nguyễn Thị Kim H2 số tiền 6.000.000 (sáu triệu) đồng, cụ thể mỗi bị cáo phải bồi thường số tiền như sau:

+ Trần Văn D bồi thường số tiền 1.500.000 (một triệu năm trăm ngàn) đồng.

+ Trương Văn K bồi thường số tiền 1.500.000 (một triệu năm trăm ngàn) đồng.

+ Nguyễn Tiến L bồi thường số tiền 1.500.000 (một triệu năm trăm ngàn) đồng.

+ Phan Minh L2 bồi thường số tiền 1.500.000 (một triệu năm trăm ngàn) đồng.

- Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 + Buộc bị cáo Lê Minh S1 nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 110.000.000 (một trăm mười triệu) đồng để tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

+ Buộc bị cáo Nguyễn Vương V1 nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng để tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự + Tịch thu tiêu hủy: 01 két sắt hiệu G&H.BAUCHE; 01 cánh cửa két sắt hiệu Alpha; 01 két sắt hiệu STYLE OF KOREA bị đục hư; 01 đôi dép màu đen (không rõ hiệu); 01 viên gạch ống màu đỏ, kích thước 18x8x8 cm và 01 cây kéo bằng kim loại dài 27cm.

+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 xe ô tô hiệu KIA-CERATO, màu xanh, biển số: 51H-734.54, số khung: RNYBC41A6KC166968, số máy: G4FGKH73678 và 01 điện thoại di động hiệu Oppo F9, màu đỏ, imei số:

866376044513130.

+ Giao cho Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh 01 điện thoại di động Iphone 12 Promax, màu gold, để bán đấu giá, số tiền thu được sẽ cấn trừ vào khoản tiền mà bị cáo Trương Văn K phải bồi thường thiệt hại.

+ Trả lại cho bị cáo Trương Văn K 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu đen, imei số: 353161110211664, nhưng tạm giữ cho đến khi bị cáo K thi hành xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 454/PNK/23 ngày 25 tháng 10 năm 2023 của Công an Thành phố Hồ Chí Minh và Quyết định chuyển vật chứng số 159/Q Đ-VKS-P2 ngày 11/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh).

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Các bị cáo phải nộp án phí dân sự sơ thẩm cụ thể như sau:

- Trần Văn D 22.760.000 (hai mươi hai triệu bảy trăm sáu mươi ngàn) đồng.

- Trương Văn K 22.760.000 (hai mươi hai triệu bảy trăm sáu mươi ngàn) đồng.

- Nguyễn Tiến L 22.760.000 (hai mươi hai triệu bảy trăm sáu mươi ngàn) đồng.

- Phan Minh L2 22.760.000 (hai mươi hai triệu bảy trăm sáu mươi ngàn) đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo chưa thanh toán đầy đủ các khoản tiền bồi thường về tài sản theo mức nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi bằng 50% mức lãi suất giới hạn theo quy định tại thời điểm thanh toán, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 552/2023/HS-ST

Số hiệu:552/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về