Bản án về tội trộm cắp tài sản số 46/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ G, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 46/2022/HS-ST NGÀY 24/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 246/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 246/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2022, đối với bị cáo:

Đinh Ngọc T (tên gọi khác Mực); sinh ngày 15/05/1982. Tại G, tỉnh Kiên Giang; Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Số nhà 10 đường N, phường T1, thành phố G, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đinh Văn T2 (đã chết) và bà Phạm Thị C; Em ruột nhỏ nhất sinh năm 1992; Vợ: Lý Thị V (Đã ly hôn); Con có 01 người, sinh năm 2007 (Đang sống cùng bị cáo).

Tiền sự: Chưa.

Tiền án: Ngày 22/11/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố G xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 10/02/2014 chấp hành xong hình phạt, chưa xóa án tích.

Ngày 23/03/2015, bị Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đến ngày 20/8/2020 chấp hành xong hình phạt, chưa xóa án tích.

Nhân thân: Ngày 09/7/2008, bị Ủy ban nhân dân thành phố G quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đến ngày 05/8/2010 chấp hành xong (Xóa tiền sự).

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày: 05/10/2021 Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Nguyễn Thị Tường V1, sinh năm 2002 (Có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Nhà cho thuê số 44 đường K, phường B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

- Người làm chứng:

+ Nguyễn Bình A, sinh năm 1992 (Vắng mặt) Địa chỉ: Nhà cho thuê số 44 đường K, phường B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Đinh Ngọc T là người không có nghề nghiệp ổn định. Vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 05/10/2021, T từ nhà đi đến đường K tìm tài sản sơ hở để lấy trộm. Khi đến dãy nhà cho thuê số 44 đường K, phường B, thành phố G, T quan sát trên vĩa hẻ nhà cho thuê (mặt sau là đường Lê Phụng Hiểu) có đậu 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 54V5-8346 của Nguyễn Thị Tường V1 là người đang thuê phòng số 02 của nhà cho thuê số 44 đường K (Xe do V1 được chị bà con tên Nguyễn Thị Thu H cho để sử dụng nhưng chưa làm thủ tục sang tên), xe đậu không có người trông coi, T đi đến lén lút dẫn xe xuống đường Lê Phụng Hiểu, phương B (mặt sau của nhà trọ) được khoảng 05m định lên khởi động xe chạy nhưng không được, lúc này Nguyễn Bình A là người thuê phòng cùng dãy nhà trọ của V1 phát hiện giữ T lại và thông báo cho V1 trình báo Công an phường B bắt người phạm tội quả tang cùng vật chứng. Đến ngày 11/10/2021, T bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố G khởi tố và tạm giam để điều tra.

Bị cáo Đinh Ngọc T đã khai nhận hành vi phạm tôi của bị cáo như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Đinh Ngọc T đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”.

* Vật chứng trong vụ án:

- 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA màu đỏ đen, biển kiểm soát 54V5-8346, đã qua sử dụng.

* Tại bản kết luận về việc định giá tài sản số 136/KL- HĐĐGTS, ngày 07/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố G xác định: 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA màu đỏ đen, biển kiểm soát 54V5- 8346; số máy 16S1-048403, số khung S109Y-048393, đã qua sử dụng, thời điểm định giá ngày 05/10/2021 là 4.800.000 đồng (bút lục số 71).

Về trách nhiệm dân sự:

Tài sản đã được trả lại cho bị hại Nguyễn Thị Tường V1, bị hại không yêu cầu gì khác.

Tại bản cáo trạng số: 09/CT-VKSRG, ngày 14 tháng 12 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Đinh Ngọc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ Luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra Công an thành phố G và bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đinh Ngọc T phạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Đinh Ngọc T từ 02 (Hai) năm đến 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Hoàn trả 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA màu đỏ đen, biển kiểm soát 54V5-8346; số máy 16S1-048403, số khung S109Y- 048393, đã qua sử dụng, cho bị hại Nguyễn Thị Tường V1 đã trả xong, không yêu cầu bồi thường gì thêm.

* Lời nói sau cùng của bị cáo: Không.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Đinh Ngọc T: Vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 05/10/2021, bị cáo Đinh Ngọc T đi bộ từ nhà số 10 đường N, phường T1 đến khu vực đường K, phường B, thành phố G để tìm tài sản hở lấy trộm, khi đi đến trước nhà cho thuê số 44 đường K, phường B, thành phố G thành phát hiện và lén lút lấy trộm một 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA màu đỏ đen, biển kiểm soát 54V5-8346 của chị Nguyễn Thị Tường V1 (qua định giá có giá trị là 4.800.000 đồng).

Từ những chứng cứ đã nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Đinh Ngọc T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điển g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự như kết luận của Viện kiểm sát nhân dân thành phố G là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét về hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mặc dù bị cáo ý thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên bị cáo lợi dụng sự sơ hở của các bị hại bất chấp thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống gia đình bị hại, làm mất an ninh, trật tự ở địa phương và gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân. Qua xem xét, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu, nhiều lần bị Tòa án xử phạt về tội trộm cắp tài sản và mua bán trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tôi, ngoài ra bị cáo còn bị Ủy ban nhân dân thành phố G đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đã được xóa tiền sự. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất xử phạt bị cáo mức án tương xứng bằng hình phạt tù có thời hạn, giam giữ bị cáo trong thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt, sống có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đã cho thấy bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định, điều kiện kinh tế gia đình khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

- Hoàn trả cho chị Nguyễn Thị Tường V1 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA màu đỏ đen, biển kiểm soát 54V5-8346; số máy 16S1-048403, số khung S109Y-048393, đã qua sử dụng, chị V1 đã nhận lại xong và không yêu cầu gì khác nên không xem xét.

[7] Xét đề nghị của Viện kiểm sát đề nghị tại bản luận tội đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Đinh Ngọc Thành phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Đinh Ngọc Thành mức án 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 05/10/2021).

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; buộc bị cáo Đinh Ngọc Thành phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 24/01/2022). Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 46/2022/HS-ST

Số hiệu:46/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về