Bản án về tội trộm cắp tài sản số 30/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 30/2021/HS-ST NGÀY 07/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2021/HSST ngày 24 tháng 8 năm 2021, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên Đinh Công C; Sinh ngày 31/12/1996 tại huyện B, tỉnh Sơn La; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: bản S, xã M, huyện B, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông: Đinh Văn T, sinh năm 1972 và bà Hoàng Thị Đ, sinh năm 1978, hiện nay đều cư trú tại bản S, xã M, huyện B, tỉnh Sơn La; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Ngày 28/5/2021, bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Sơn La xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: Không; Nhân thân: không; Bị cáo bị bắt, tạm giam giữ từ ngày 01/7/2021 đến nay. Có mặt.

Người bị hại: Anh Đinh Văn M; sinh năm 1993; Địa chỉ: Bản N, xã S, huyện B, tỉnh Sơn La. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Vũ Trung L; sinh năm 1988; Địa chỉ: TK1, thị trấn B, huyện B, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.

Ông Đinh Văn T; sinh năm 1972; Địa chỉ: Bản S, xã M, huyện B, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tại bản cáo trạng số 23/CT-VKS-BY ngày 23 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Sơn La, truy tố bị cáo Đinh Công C phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Khoảng 08 giờ ngày 29/6/2021, Đinh Công C đi bộ một mình từ tiểu khu 3 đến gần cổng phụ của Công an huyện B, C nhìn thấy nhà anh Đinh Văn M, đang khóa cổng, C quan sát xung quanh không thấy người nên nảy sinh ý định vào nhà anh M trộm cắp tài sản. C trèo qua cổng chính vào trong sân thấy cửa chính đã khóa, C đi đến phía cửa sổ và dùng tay mở hai cánh cửa sổ ra có song chắn bằng gỗ, C dùng tay nắm một thanh chắn song giật mạnh ra phía ngoài, làm gẫy song cửa, C chui người qua khe hở vào trong nhà. C thấy có một tủ quần áo ở phía đầu giường ngủ không khóa, C dùng tay phải mở cửa tủ ra thấy bên trong có một chiếc máy tính xách tay (laptop) nhãn hiệu ASUS màu đen, một con chuột máy tính, C lấy chiếc máy tính và con chuột cho vào túi màu đen đang để ở trên giường, trong túi đã có sẵn bộ sạc sau đó trèo qua cửa sổ thoát ra ngoài. C đi bộ theo quốc lộ 37 hướng đi sang ngã ba T. C có gặp anh Vũ Trung L và hỏi anh L để cầm đồ chiếc máy tính và số tài sản nói trên, C nói dối anh L số tài sản trên là của C, do cần tiền nên đem đi cầm đồ. Sau khi cùng anh L thỏa thuận thống nhất, cả hai cùng làm hợp đồng, C đã cầm cố số tài sản trên cho anh L với số tiền là 1.200.000 đồng. Sau khi nhận đủ số tiền trên, C đã đem đi chi tiêu cá nhân hết. Đến ngày 01/7/2021, Đinh Công C bị bắt tạm giam, giữ để điều tra làm rõ về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Vật chứng thu giữ: 01 chiếc máy tính xách tay (laptop) màu đen bạc nhãn hiệu ASUS; 01 sạc máy tính màu đen nhãn hiệu ASUS; 01 chuột máy tính không dây màu đen nhãn hiệu FUHLEN đã qua sử dụng. 01 túi đựng máy tính màu đen; 01 chứng minh thư nhân dân số 050986586 mang tên Đinh Văn C; 01 thanh gỗ tạp bị gãy vát thành hai thanh: Thanh thứ nhất có chiều dài 50cm, thanh thứ hai có chiều dài 45cm.

Tại kết luận định giá tài sản số 577/KL-HĐĐG ngày 22/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện B kết luận: 01 chiếc máy tính xách tay màu đen bạc nhãn hiệu ASUS có giá trị 3.000.000 đồng; 01 sạc máy tính màu đen nhãn hiệu ASUS có giá trị 200.000 đồng; 01 chuột máy tính không dây màu đen nhãn hiệu FUHLEN có giá trị 50.000 đồng; 01 túi đựng máy tính màu đen có giá trị 50.000 đồng. Tổng giá trị tài sản được Hội đồng định giá là 3.300.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa công khai, bị cáo Đinh Công C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với nội dung cáo trạng, phù hợp với các tài liệu chứng cứ, trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa không phát sinh tình tiết mới.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đinh Công C đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đinh Công C phạm tội: “Trộm cắp tài sản” và đề nghị áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56; khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Xử phạt bị cáo Đinh Công C từ 18 đến 24 tháng, tổng hợp với hình phạt 12 tháng tù của bản án số 19/2021/HSST ngày 28/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Sơn La về tội “Trộm cắp tài sản”. Buộc bị cáo Đinh Công C phải chấp hành hình hình phạt chung từ 30 đến 36 tháng tù. Thời hạn tù tính từ từ ngày 01/7/2021 là ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47; khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 1; điểm a, c khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã trả lại cho anh Đinh Văn M 01 chiếc máy tính xách tay (laptop) màu đen bạc nhãn hiệu ASUS; 01 sạc máy tính màu đen loại nhãn hiệu ASUS; 01 chuột máy tính không dây màu đen nhãn hiệu FUHLEN, 01 túi đựng máy tính màu đen.

- Tịch thu tiêu hủy 02 thanh gỗ tạp bị gãy vát, thanh thứ nhất dài 50cm, thanh thứ hai dài 45cm.

- Trả lại cho bị cáo Đinh Công C 01 chứng minh thư nhân dân (bản gốc) số 050986586 mang tên Đinh Văn C.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; các Điều 584, 585 và 589 Bộ luật dân sự: Chấp nhận việc đại diện gia đình của Đinh Công C là ông Đinh Văn T – bố đẻ bị cáo đã trả đủ số tiền 1.200.000 đồng cho anh Vũ Trung L. Anh L không có yêu cầu, đề nghị gì thêm.

Về án phí: Buộc bị cáo Đinh Công C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Ý kiến của bị cáo Đinh Công C tự bào chữa: bị cáo nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo nhận thức hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, bị mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Người bị hại, anh Đinh Văn M trình bày ý kiến tranh luận: Nhất trí với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát. Bị hại đã nhận lại được tài sản, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường khoản tiền gì và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – Anh Vũ Trung L trình bày ý kiến tại biên bản ghi lời khai: Tôi đã nhận lại được số tiền 1.200.000 đồng bố bị cáo đã bồi thường cho tôi. Không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm khoản tiền gì khác.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – Anh Đinh Văn T trình bày ý kiến tranh luận: Tôi đã tự nguyện bồi thường số tiền 1.200.000 đồng cho anh Vũ Trung L. Tôi không yêu cầu bị cáo bồi thường cho tôi số tiền trên. Ngoài ra không có yêu cầu, đề nghị gì khác.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – anh Vũ Trung L đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Việc anh Vũ Trung L vắng mặt không gây trở ngại cho việc xét xử. Phiên tòa xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đảm bảo theo quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Đinh Công C thừa nhận: Lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của anh Đinh Văn M, ngày 29/6/2021, bị cáo Đinh Công C đã một mình thực hiện hành vi lén lút, chiếm đoạt 01 máy tính xách tay nhãn hiệu ASUS màu đen, 01 chuột máy tính, 01 sạc máy tính màu đen loại nhãn hiệu ASUS, 01 túi đựng máy tính của anh Đinh Công C. Sau khi trộm cắp tài sản, bị cáo có gặp anh Vũ Trung L và thỏa thuận với anh L cầm đồ chiếc máy tính và số tài sản nói trên với số tiền là 1.200.000 đồng. Sau khi nhận đủ số tiền, C đã đem đi chi tiêu cá nhân hết. Đến ngày 01/7/2021, Đinh Công C bị bắt tạm giam, giữ để điều tra làm rõ về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Tại kết luận định giá tài sản số 577/KL-HĐĐG ngày 22/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện B kết luận: 01 chiếc máy tính xách tay màu đen bạc nhãn hiệu ASUS có giá trị 3.000.000 đồng; 01 sạc máy tính màu đen nhãn hiệu ASUS có giá trị 200.000 đồng; 01 chuột máy tính không dây màu đen nhãn hiệu FUHLEN có giá trị 50.000 đồng; 01 túi đựng máy tính màu đen có giá trị 50.000 đồng. Tổng giá trị tài sản được Hội đồng định giá là 3.300.000 đồng.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản khám nghiệm hiện trường, Kết luận định giá tài sản, lời khai của người bị hại, người làm chứng.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Đinh Công C đã thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản, tội danh quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng … thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có đủ hiểu biết để nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình làm là nguy hiểm cho xã hội và bản thân nhưng vì ăn chơi, đua đòi, nghiện ma túy, nghiện điện tử (game), hám lợi bất chính nên bị cáo đã thực hiện tội phạm tuy tài sản chiếm đoạt có trị giá 3.300.000 đồng.

Hành vi trên của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người bị hại, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an và an toàn xã hội ở địa phương.

[3] Về tình tiết tăng nặng: bị cáo Đinh Công C phạm tội có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 28/5/2021, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện B tuyên phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 28/5/2021 về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đang trong thời gian thử thách lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội ngày 29/6/2021 là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo và gia đình đã tích cực bồi thường, khắc phục hậu quả. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở sâu, vùng xa, nhận thức và am hiểu pháp luật có phần hạn chế. Nên bị cáo Đinh Công C được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt chính: Tòa cần xem xét cân nhắc xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo. Bị cáo Đinh Công C phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đảm bảo giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người tốt, có ích cho xã hội, đồng thời đáp ứng yêu cầu công tác đấu tranh phòng chống các hành vi tương tự xảy ra ở địa phương hiện nay. Bên cạnh đó, bị cáo Đinh Công C phạm tội mới trong thời gian thử thách nên cần buộc Đinh Công C phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 55; Điều 56 và khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Bị cáo đang bị tạm giam cần tiếp tục tạm giam theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Thời gian tạm giam được tính vào thời gian thụ hình.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5, Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo làm nghề lao động tự do, do tác động của dịch Covid-19 nên thu nhập thấp, đang sống chung với bố mẹ, không có tài sản riêng có giá trị. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Đinh Văn M đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì. Đối với số tiền 1.200.000 đồng mà anh Vũ Trung L đã đưa cho C khi cầm cố tài sản, anh Lập yêu cầu C phải bồi thường số tiền nói trên. Ngày 26/7/2021, ông Đinh Văn T là bố đẻ Đinh Công C đã trả đủ số tiền 1.200.000 đồng cho anh L. Việc bồi thường là hoàn toàn tự nguyện và đúng quy định của pháp luật, cần ghi nhận. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – anh Vũ Trung L và ông Đinh Văn T không yêu cầu bị cáo bồi thường, bồi hoàn gì. Xét ý kiến của người bị hại, những người có quyền, lợi, nghĩa vụ liên quan là hoàn toàn tự nguyện nên vấn đề bồi thường, bồi hoàn không đặt ra xem xét giải quyết.

[9] Về vật chứng vụ án:

Đối với số tài sản gồm: 01 chiếc máy tính xách tay (laptop) màu đen bạc nhãn hiệu ASUS; 01 sạc máy tính màu đen loại nhãn hiệu ASUS; 01 chuột máy tính không dây màu đen nhãn hiệu FUHLEN đã qua sử dụng. 01 túi đựng máy tính màu đen qua điều tra, xác minh xác định là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của anh Đinh Văn M, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã thu giữ và trả lại cho chủ sở hữu là đúng quy định của pháp luật.

Số tài sản gồm: 02 (hai) thanh gỗ tạp bị gãy vát, thanh thứ nhất dài 50cm, thanh thứ hai dài 45cm là tài sản của anh Đinh Văn M, anh M xác định không còn giá trị sử dụng, không đề nghị nhận lại cần chấp nhận.

Đối với 01 chứng minh thư nhân dân (bản gốc) số 050986586 mang tên Đinh Văn C là tài sản thuộc sở hữu của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội. Bị cáo đề nghị xin được nhận lại, cần chấp nhận.

[10] Đối với anh Vũ Trung L và chị Trần Thị T là chủ cơ sở cầm đồ, anh L là người trực tiếp giao dịch cầm đồ với Đinh Công C, bản thân anh L không biết số tài sản mà C đem đến là do trộm cắp được mà có. Anh L cũng không được hứa hẹn, bàn bạc gì trước với C, việc cầm đồ trên là giao dịch dân sự ngay thẳng, do vậy cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý là có căn cứ.

[11] Về án phí: Bị cáo Đinh Công C không thuộc trường hợp được miễn, giảm án phí, do vậy phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1, Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 55; Điều 56; khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Tuyên bố bị cáo Đinh Công C phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Đinh Công C 21 (Hai mươi mốt) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Buộc bị cáo Đinh Công C phải chấp hành hình phạt 12 (Mười hai) tháng tù của bản án số 19/2021/HSST ngày 28/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Sơn La về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tổng hợp hình phạt của cả hai bản án, buộc bị cáo Đinh Công C phải chấp hành hình hình phạt chung là 33 (Ba mươi ba tháng tù). Thời hạn tù tính từ ngày 01/7/2021 là ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Đinh Công C.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 1; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã thu giữ và trả lại cho anh Đinh Văn M 01 chiếc máy tính xách tay (laptop) màu đen bạc nhãn hiệu ASUS; 01 sạc máy tính màu đen loại nhãn hiệu ASUS; 01 chuột máy tính không dây màu đen nhãn hiệu FUHLEN, 01 túi đựng máy tính màu đen.

- Tịch thu tiêu hủy 02 thanh gỗ tạp bị gãy vát, thanh thứ nhất dài 50cm, thanh thứ hai dài 45cm.

- Trả lại cho bị cáo Đinh Công C 01 chứng minh thư nhân dân (bản gốc) số 050986586 mang tên Đinh Văn C.

(Chi tiết theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản của vụ án giữa Công an huyện B và Chi cục Thi hành án dân sự huyện B ngày 24/8/2021).

3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 584, 585 và 589 Bộ luật dân sự; Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, ghi nhận ông Đinh Văn T – bố đẻ bị cáo Đinh Công C đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường cho anh Vũ Trung L số tiền 1.200.000 đồng. Anh Vũ Trung L không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Ghi nhận ông Đinh Văn T không yêu cầu bị cáo bồi hoàn lại số tiền trên cho ông T. Ghi nhận bị hại Đinh Văn M không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

4. Về Án phí: Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đinh Công C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Báo cho bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được giao, gửi bản án theo thủ tục hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 30/2021/HS-ST

Số hiệu:30/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Yên - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về