TÒA ÁN NH DÂN HUYỆN CG, TỈNH LA
BẢN ÁN 107/2023/HS-ST NGÀY 01/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 01 tháng 11 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án Nh dân huyện CG, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 101/2023/TLST - HS ngày 09 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2023/QĐXXST-HS, ngày 12 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên Trương Ngọc Nh, sinh năm: 1994.
Tên gọi khác: Nh Mập.
Nơi thường trú: ấp Thuận Bắc, xã Thuận Thành, huyện CG, tỉnh LA; Nghề nghiệp: sửa xe; Trình độ học vấn: 01/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Ngọc T và bà Nguyễn Thị Bé T; Bản thân có vợ tên Nguyễn Thu P, có 01 con, sinh năm 2016; Tiền án: Bản án số 91/2017/HSST Ngày 14/12/2017 của Tòa án Nh dân huyện CG xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 17/03/2020, chưa xóa án tích và Bản án số 16/2021/HSST, ngày 28/6/2021, của Tòa án Nh dân huyện Cần Đước xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã chấp hành xong hình phạt vào ngày 28/02/2023, chưa xóa án tích; Tiền sự: không; Nh thân: Ngày 07/9/2010, bị Công an xã Long Thượng, huyện CG xử phạt vi phạm hành chính với số tiền là 75.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong; Bản án số 87/2011/HSST ngày 18/11/2011 của Tòa án Nh dân huyện CG xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và Bản án số 25/2012/HSST ngày 12/3/2012 của Tòa án Nh dân huyện CG xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tổng hợp hình phạt của Bản án số 87/2011/HSST ngày 18/11/2011 của Tòa án Nh dân huyện CG, hình phạt chung là 02 năm 03 tháng tù, chấp hành xong. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/6/2023 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Nguyễn Vũ H, sinh năm: 1982 (vắng mặt).
Cư trú: khu phố Phước Thuận, thị trấn CG, huyện CG, tỉnh LA.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 00 ngày 08/6/2023, Trương Ngọc Nh là người phạm tội tái phạm chưa được xóa án tích nay tiếp tục điều khiển xe mô tô loại xe Wave 110, màu xanh - đen, biển số 72T3 - xxxx đi từ Tp. Hồ Chí Minh đến thị trấn CG, huyện CG, tỉnh LA mục đích tìm tài sản của người khác để lấy trộm. Đến khoảng 21 giờ 40 cùng ngày, Nh điều khiển xe mô tô đến khu dân cư Mỹ Dinh thuộc khu phố Phước Thuận, thị trấn CG phát hiện có khoảng 05 (năm) cây mai vàng được trồng trên chậu để cặp lề đường nội bộ khu dân cư phía bên hông nhà anh Nguyễn Vũ H nhưng không có ai trông coi. Nh đậu xe tại vỉa hè, rồi lấy 01 (một) cây kìm cộng lực màu xanh - đen, dài 60 cm, hiệu “Standard” đã mang theo trước đó đi đến cắt sợi dây xích quấn vào gốc 01 (một) cây mai vàng có kích thước: chu vi gốc 30 cm, chiều cao 148 cm, chu vi tàng 130 cm đang được trồng trong chậu. Nh dùng hai tay nhổ cây mai vàng lên rồi cho vào một cái bao nylon bỏ lên phía sau yên xe mô tô, rồi tẩu thoát về hướng ngã ba Tân Kim, thị trấn CG thì bị lực lượng Công an thị trấn CG đang tuần tra phát hiện và mời làm việc. Tại Cơ quan Công an, Nh đã thừa nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình.
Kết luận định giá số 36/KL-HĐĐGTS, ngày 12/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện CG xác định: 01 (một) cây mai vàng có kích thước: chu vi gốc 30 cm, chiều cao 148 cm, chu vi tàng 130 cm có giá trị là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).
Tại Bản cáo trạng số 105/CT-VKSCG ngày 06/10/2023 của Viện kiểm sát Nh dân huyện CG truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như Bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Trương Ngọc Nh từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.
Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Về tang vật: Đối với 01 (một) kìm cộng lực màu xanh - đen, dài 60 cm, hiệu “Standard” đã qua sử dụng, đề nghị tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 (một) xe mô tô loại xe Wave 110, màu xanh - đen, biển số 72T3 – xxxx (biển số giả), đã qua sử dụng, không có giấy tờ, là phương tiện bị cáo sử dụng thực hiện hành vi phạm tội, đề nghị tịch thu sung nộp ngân sách nhà nước.
Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra tạm giữ và hoàn trả: 01 (một) cây mai vàng cho bị hại Nguyễn Vũ H, là phù hợp và 01 (một) điện thoại di động hiệu Huawei, màu xanh - đen bị bể đã qua sử dụng, sim số 01: 0565.748.xxxx, số sim 02: 0945.628.xxxx cho bị cáo do không liên quan đến vụ án, là phù hợp.
Về trách nhiệm dân sự dân sự: bị hại Nguyễn Vũ H đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu bồi thường nên không đề cập đến.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận.
Bị cáo trong lời nói sau cùng xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện CG, Điều tra viên, Viện kiểm sát Nh dân huyện CG, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Do cần tiền tiêu xài cá Nh, nên vào khoảng 21 giờ 40 phút ngày 08/6/2023 tại khu dân cư Mỹ Dinh thuộc khu phố Phước Thuận, thị trấn CG bị cáo Nh đã lén lút thực hiện hành vi lấy trộm 01 (một) cây mai vàng của bị hại Nguyễn Vũ H. Theo Kết luận định giá tài sản số: 36/KL-HĐĐGTS, ngày 12/6/2023, kết luận: tài sản bị chiếm đoạt trị giá 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng). Giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt trị giá 3.000.000 đồng, tức là trên 2.000.000 đồng và dưới 50.000.000 đồng. Nên hành vi của bị cáo cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
[3] Bị cáo Nh là người đã có 02 (hai) tiền án, cụ thể: Bản án số 91/2017/HSST, ngày 14/12/2017 của Tòa án Nh dân huyện CG xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 17/03/2020, chưa xóa án tích và Bản án số 16/2021/HSST, ngày 28/6/2021, của Tòa án Nh dân huyện Cần Đước xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã chấp hành xong hình phạt vào ngày 28/02/2023, chưa xóa án tích, thì ngày 08/6/2023 bị cáo lại thực hiện hành vi phạm tội mới với lỗi cố ý. Nên lần phạm tội này của bị cáo Nh thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự. Nên thuộc trường hợp định khung tăng nặng hình phạt là “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an toàn xã hội, gây mất an ninh trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi lén lút lấy trộm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Do đó hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử lý thỏa đáng mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[5] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định tại Điều 52 BLHS: không.
[6] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[7] Xét về Nh thân, bị cáo có Nh thân xấu, cụ thể: Ngày 07/9/2010, bị Công an xã Long Thượng, huyện CG xử phạt vi phạm hành chính với số tiền là 75.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong; Bản án số 87/2011/HSST ngày 18/11/2011 của Tòa án Nh dân huyện CG xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và Bản án số 25/2012/HSST ngày 12/3/2012 của Tòa án Nh dân huyện CG xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong.
[8] Xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Xét thấy áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo cũng đủ răn đe, nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.
[9] Về tang vật: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý tang vật thu giữ như sau:
[9.1] Đối với 01 (một) kìm cộng lực màu xanh - đen, dài 60 cm, hiệu “Standard” đã qua sử dụng, bị cáo sử dụng làm công cụ thực hiện hành vi phạm tội, xét thấy giá trị sử dụng không lớn, nên tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 (một) xe mô tô loại xe Wave 110, màu xanh - đen, biển số 72T3 – xxxx (biển số giả), đã qua sử dụng, không có giấy tờ hợp lệ, tại phiên tòa bị cáo khai là nhận cầm cố từ một người bạn ngoài xã hội không rõ Nh thân, là phương tiện bị cáo sử dụng thực hiện hành vi phạm tội, nên tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước.
[9.2] Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra tạm giữ và hoàn trả: 01 (một) cây mai vàng cho bị hại Nguyễn Vũ H, là phù hợp và 01 (một) điện thoại di động hiệu Huawei, màu xanh - đen bị bể đã qua sử dụng, sim số 01: 0565.748.xxxx, số sim 02: 0945.628.xxxx cho bị cáo do không liên quan đến vụ án, là phù hợp [10] Về trách nhiệm dân sự: tại phiên tòa, bị hại anh H vắng mặt, nhưng theo hồ sơ thể hiện anh H đã nhận là tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu (bút lục số 100), nên không xem xét.
[11] Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Trương Ngọc Nh phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Trương Ngọc Nh 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 13/6/2023.
Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (01/11/2023) để đảm bảo việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.
Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Về tang vật:
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) kìm cộng lực màu xanh – đen, dài 60 cm, hiệu “Standard” đã qua sử dụng.
Tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) xe mô tô loại xe Wave 110, màu xanh – đen, biển số 72T3 – xxxx (biển số giả), đã qua sử dụng, không có giấy tờ.
Hiện vật chứng Chi cục thi hành án dân sự huyện CG đang tạm giữ theo Quyết định chuyển vật chứng số 64/QĐ-VKSCG, ngày 06 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát Nh dân huyện CG.
Về án phí: bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm công khai báo cho bị cáo có mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 107/2023/HS-ST
Số hiệu: | 107/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cần Đước - Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về