Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 86/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 86/2022/HS-ST NGÀY 24/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 50/2022/TLST- HS ngày 17 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2022/QĐXXST-HS ngày 10/6/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị L; Sinh năm 1972 tại Tp. Hồ Chí Minh; ĐKNKTT: khu phố 01, phường Phú Trinh, Tp. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; Chỗ ở hiện nay: khu phố 01, phường P, Tp. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 07/12; Nghề nghiệp: nội trợ; Con ông Nguyễn N và bà Nguyễn Thị C (hiện đã chết); Có chồng tên Trần Văn T (hiện đã ly hôn) và 04 con, lớn nhất sinh năm 1992, nhỏ nhất sinh năm 2001; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Năm 2006 bị Công an Tp. Phan Thiết xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng: Vương V – sinh năm 1978 (vắng mặt) Trú tại: Khu phố 02, phường P, Phan Thiết, Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 21/02/2021, Nguyễn Thị L điều khiển xe mô tô biển số 86C1-912.98 đến khu nhà trọ của ông T thuộc khu phố 2, phường Phú Trinh, thành phố Phan Thiết để gặp một người phụ nữ tên D (không rõ nhân thân) hỏi mua 01 tép ma túy đá có đặc điểm là một gói nylon không màu, hàn kín, kích thước (03 x 1,8) cm với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy thì L bỏ ma túy vào túi xách màu đen mang theo trên người để đi đến phòng trọ của bạn chơi. Khi đi đến khu vực trước quán Men trên đường Lê Duẩn thuộc khu phố 2, phường P, thành phố Phan Thiết thì L gặp bạn tên Vương V xin đi nhờ xe nên Lan đưa xe cho Vỵ chở. Khi Vỵ chở Lan đến ngã ba đường Trường Chinh và Lê Duẩn thuộc khu phố 2, phường P thì bị tổ tuần tra đội Cảnh sát giao thông và trật tự - Công an thành phố Phan Thiết yêu cầu dừng xe kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra, phát hiện trong túi xách mà L đang đeo trên người có 01 gói nylon không màu, hàn kín, kích thước (03 x 1,8) cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng. L khai nhận đây là ma túy đá nên lực lượng Công an đã thu giữ tang vật, đưa L và V về trụ sở Công an để làm việc. Tại cơ quan công an, L thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng.

Vật chứng của vụ án:

- 01 gói nylon không màu, hàn kín, kích thước (03 x 1,8)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng (Ký hiệu M khi giám định).

- 01 xe mô tô hiệu Vision, biển số 86C1-912.98, số máy: JF86E2179950, số khung: 5830ky115538.

Tất cả vật chứng nêu trên thu giữ từ Nguyễn Thị Lan.

Tại Bản kết luận giám định số 339/KLGĐ-PC09 ngày 23/3/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự-Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,2079 gam, là Methamphetamine.

Đối với xe mô tô hiệu Vision, biển số 86C1-912.98, số máy: JF86E2179950, số khung: 5830ky115538, quá trình điều tra đã xác định người đứng tên chủ sở hữu là chị Trần Thị Thu T (là con gái ruột của L). Ngày 21/02/2021, chị T giao xe mô tô biển số 86C1-912.98 cho L để chở cháu đi học, T không biết việc L sử dụng xe để đi mua ma túy, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phan Thiết đã ra Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu, trả lại xe mô tô biển số 86C1-912.98 cho chị T. Sau khi nhận lại tài sản, chị T không có yêu cầu gì về dân sự.

Đối với vật chứng của vụ án là số ma túy còn lại sau giám định, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết đã ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết bảo quản chờ xử lý Tại bản cáo trạng số 53/QĐ/KSĐT/VKS-HS ngày 15/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Thị L từ 12 đến 18 tháng tù và đề nghị áp dụng các quy định tại khỏa 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý vật chứng trong vụ án.

Bị cáo không trình bày lời bào chữa cũng như không có ý kiến về lời luận tội của Kiểm sát viên đồng thời thừa nhận tòan bộ hành vi phạm tội và đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là đầy đủ và tuân thủ đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về căn cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo khai nhận hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng và những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Vào lúc 15 giờ ngày 21/02/2021, tại khu vực ngã tư đường Lê Duẫn – Trường Chinh thuộc khu phố 2, P, Phan Thiết, Nguyễn Thị Ln đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2079 gram Methamphetamin nhằm mục đích sử dụng thì bị lực lượng tổ tuần tra đội Cảnh sát giao thông và trật tự - Công an Tp. Phan Thiết kiểm tra phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương, đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết đã truy tố bị cáo với tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ và đúng qui định của pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Bị cáo là một người đã trưởng thành, bị cáo nhận thức đầy đủ về hành vi của mình đối với xã hội. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người và cộng đồng xã hội, bị cáo nhận thức được Methamphetamine là loại ma túy gây nghiện, nhà nước nghiêm cấm và nghiêm khắc xử lý đối với mọi hành vi mua bán, vận chuyển, tàng trữ… trái phép. Bị cáo biết rõ ma túy là một trong những căn nguyên làm phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác cho xã hội, nhưng bị cáo vẫn xem thường pháp luật, nên đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bất chấp hậu quả.

Hành vi của bị cáo rất nguy hiểm cho xã hội nên cần xử lý bằng một mức hình phạt thật nghiêm, không chỉ nhằm trừng trị, mà còn giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các qui tắc của cuộc sống, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng - Tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa hôm nay cũng như quá trình điều tra, truy tố, bị cáo đã thành khẩn khai báo, vì vậy nên cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[5] Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là có căn cứ và với mức hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo là tương xứng.

[6] Trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có xem xét nhân thân của bị cáo xét thấy hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội nên việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định là cần thiết.

[7] Xử lý vật chứng: Đối với vật chứng là mẫu vật còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Các vấn đề khác: Đối với các đối tượng có tên là Dính là người đã bán ma túy cho Lan, do không xác định được nhân thân nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với Vương V quá trình điều tra xác định V không biết việc L có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy cũng như không liên quan gì đến hành vi nêu trên của L nên không xử lý hình sự đối với V là phù hợp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Lphạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Xử phạt: Nguyễn Thị L 15 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

* Biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 01 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 02 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên xử:

- Tịch thu tiêu hủy số mẫu vật còn lại sau giám định đựng trong phong bì niêm phong số 339 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Bình Thuận là vật cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị sử dụng. (Theo biên bản giao nhận vật chứng số 78 ngày 18/5/2022).

- Về án phí: Căn cứ khoản 02 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, buộc bị cáo Nguyễn Thị L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt bị cáo. Quyền kháng cáo bản án sơ thẩm của bị cáo là 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 86/2022/HS-ST

Số hiệu:86/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về