Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 75/2022/HS-ST 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 75/2022/HS-ST NGÀY 23/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 6 năm 2022, tại Hội trường A - Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số: 74/2022/TLST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 65/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân D, tên gọi khác: Không, giới tính: Nam; Sinh ngày 30 tháng 11 năm 1986, tại tỉnh Đồng Nai. Nơi cư trú: Số 112, ấp H, xã H, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: phụ gia đình; Văn hoá: 10/12. Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: kinh, tôn giáo: Phật giáo. Họ tên cha: Nguyễn Xuân T, sinh năm 1965. Họ tên mẹ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1965. Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có 03 anh em, chưa có vợ con. Tiền án: Năm 2020, Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom tuyên phạt 02 năm tù giam về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành án tại trại giam Xuân Lộc, đến ngày 04/8/2021 chấp hành xong. Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an huyện Định Quán từ ngày 17/02/2022 đến ngày 10/3/2022 được chuyển về Nhà tạm giữ thuộc công an huyện Thống Nhất cho đến nay.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Xuân D, sinh năm 1994.

(Có mặt) Nơi cư trú: Số 112, ấp H, xã H, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.

(Vắng mặt)

- Người làm chứng:

Anh Nguyễn Văn Hùng A, sinh năm 1982.

Nơi cư trú: Ấp H, xã H, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trên cơ sở kết quả điều tra đã xác định được như sau: Lúc 12 giờ, ngày 17/02/2022, tại ấp H, xã H, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai Công an huyện Thống Nhất đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Xuân D đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Tang vật thu giữ: 01(một) túi nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng (nghi là ma tuý), 01(một) xe môtô biển số 60B7 – 604.94; 01(một) điện thoại di động hiệu Iphone X màu đen. (Bút lục số 01-03) Kết quả điều tra xác định: Nguyễn Xuân D (là đối tượng nghiện ma túy, mới chấp hành xong án phạt tù ngày 04/8/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, hiện chưa được xoá án tích). Khoảng 11 giờ ngày 17/02/2022, một người tên S (là công nhân của lò gạch Nam Hà Thành thuộc ấp Hưng Nghĩa, xã Hưng Lộc) gọi điện cho D mua cơm và nhờ D mang đến lò gạch, D đồng ý. Sau khi chuẩn bị cơm cho S xong, D sử dụng điện thoại Iphone X màu đen liên lạc qua tài khoản Zalo với người tên “Tèo” (tài khoản zalo tên “Thê Thôi”, nhà ở khu vực ấp Hưng Nghĩa, xã Hưng Lộc) hỏi mua 200.000đồng ma túy đá và hẹn giao ở chợ Hưng Nghĩa. Sau khi mua được ma túy (ma túy được đựng trong túi nilon hản kín), D lấy băng keo dán túi nilon chứa ma túy vào hợp cơm, mang vào lò gạch để rủ S cùng sử dụng ma túy (S cũng là đối tượng sử dụng ma túy đá). Trên đường đi thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang Duy cùng tang vật.

Tại Bản kết luận giám định số 393/KLGĐ-PC09, ngày 23 tháng 02 năm 2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,0765 gam, loại: Methamphetamine.

Tại Cáo trạng số 42/CT-VKS.TN ngày 03 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất truy tố bị cáo Nguyễn Xuân D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo D từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) tù. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử quyết định về án phí hình sự sơ thẩm và xử lý vật chứng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Xuân D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không tham gia tranh luận, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Về tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng khác khẳng định khai báo tự nguyện, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Xuân D và Người làm chứng – anh Nguyễn Văn Hùng A mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của anh D và anh A không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do đó, căn cứ Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

2 Về tội danh và khung hình phạt: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội do mình thực hiện như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, lời khai nhận tội này phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 17/02/2022, Nguyễn Xuân D (là đối tượng nghiện ma túy, mới chấp hành xong án phạt tù ngày 04/8/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, hiện chưa được xoá án tích) đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý 0,0765gam, loại Methamphetamine thì bị công an xã Hưng Lộc, huyện Thống Nhất phát hiện bắt quả tang và xử lý. Như vậy, hành vi của Nguyễn Xuân D thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

Người nào tàng trữ ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 (một) năm đến 05 (năm) năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ Luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

Do đó, Cáo trạng số 42/CT-VKS.TN ngày 03/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất truy tố bị cáo Nguyễn Xuân D về tội danh và khung hình phạt như đã nêu trên là đúng người, đúng tội và không oan sai cho bị cáo.

3 Về tính chất, mức độ hành vi của bị cáo: Xét tính chất của vụ án thấy rằng, tình hình tội phạm ma túy nói chung và trên địa bàn huyện Thống Nhất nói riêng có chiều hướng phức tạp, với tính chất ngày càng nghiêm trọng, gây nhức nhối cho xã hội và trở thành nỗi lo của nhiều gia đình. Hậu quả do tệ nạn ma túy gây ra rất nghiêm trọng, làm tổn hại sức khỏe của một bộ phận nhân dân, đồng thời là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước. Ma túy là chất gây nghiện, người nghiện ma túy ảnh hưởng nghiêm trọng đến thể chất và tinh thần. Bị cáo nhận thức được hành vi mà mình thực hiện là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Mặt khác, do ăn chơi đua đòi nên bị cáo đã mắc vào tệ nạn xã hội (nghiện ma túy). Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

4 Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 BLHS. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, là căn cứ để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

5 Về quyết định hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo nguy hiểm cho xã hội nên cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo suy nghĩ về hành vi phạm tội của mình, tự giác cải tạo, học tập, lao động trở thành công dân sống lương thiện, có ích cho xã hội và biết tuân thủ pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền…”. Tuy nhiên, xét tình hình tài sản của bị cáo Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

7 Về vật chứng vụ án:

- 01 (một) phong bì niêm phong hoàn lại theo Kết luận giám định số 393/KLGD-PC09 của PC09 Công an tỉnh Đồng Nai, cần tịch thu tiêu huỷ.

- 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Vario biển số BKS 60B7 – 604.94. Qua xác minh, xe môtô trên là của Nguyễn Xuân D (SN 1994 - em trai D) mua của anh Đỗ Hữu T (SN 1991, HKTT: ấp H, xã H, Thống Nhất, Đồng Nai) vào năm 2020; xe có tờ hợp lệ, D không biết việc D sử dụng xe mô tô trên để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan CSĐT đã ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả cho chủ sở hữu là đúng quy định pháp luật.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, màu đen, gắn sim số 0384.865.733 thu giữ của Nguyễn Xuân D; qua làm việc D khai nhận đã sử dụng điện thoại trên để liên lạc hỏi mua ma túy, cần tịch thu sung công quỹ.

8 Các vấn đề khác: Quá trình điều tra và tại phiên tòa không xác định được đối tượng tên S đã gọi cơm và rủ D cùng sử dụng ma túy; Đối tượng tên “Tèo” là người bán ma túy cho D nên không có cơ sở để xử lý.

9 Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội và đề xuất về mức hình phạt đối với bị cáo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

10 Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm a khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 47; Điều 50 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

- Điều 106; khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/02/2022.

2. Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) gói niêm phong số 393/KLGĐ-PC09, bên trong chứa khối lượng ma túy còn lại (0,0765 gam) sau giám định; tịch thu sung công quỹ điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, màu đen, gắn sim số 0384.865.733 (theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 03 tháng 6 năm 2022 giữa Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thống Nhất).

3. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Xuân D phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

90
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 75/2022/HS-ST 

Số hiệu:75/2022/HS-ST 
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về