Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 68/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 68/2021/HS-ST NGÀY 20/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 20 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, Tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 67/2021/HSST ngày 23 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2021/QĐXXST-HS ngày 06/8/2021 đối với bị cáo :

Họ và tên: Chu Minh D, sinh năm 1979, tại huyện N, tỉnh Nam Định. Nơi cư trú (ĐKHKTT, chỗ ở): xóm N, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chu Văn P (đã chết) và bà Chu Thị P1; có vợ là Trần Thị T và 04 con, con lớn nhất sinh năm 2005, con nhỏ nhất sinh năm 2013.

Tiền án: Bản án số 30 ngày 08/6/2017 Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Nam Định xử phạt 30 tháng tù và 200.000đ án phí về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/4/2019, chấp hành xong án phí tháng 8/2017.

Tiền sự: không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/4/2021, chuyển tạm giam ngày 27/4/2021 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình (có mặt ).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Trần Thị T, sinh năm 1986; trú tại xóm N, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định (vắng mặt).

*Người làm chứng: anh Trần Trọng Đ và anh Nguyễn Văn K (đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 06 giờ 00 phút ngày 20/4/2021, Chu Minh D điều khiển xe mô tô đi từ nhà sang khu vực huyện K tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến khu vực ngã ba giáp danh giữa xã C và xã X đoạn thuộc thôn L, xã X huyện K, bị cáo gặp một người đàn ông không quen biết khoảng 50 tuổi, hỏi và mua được của người này 01 gói ma túy với giá 500.000đ rồi cầm ở tay trái điều khiển xe đi về. Khi đến khu vực trước cổng phía tây nhà thờ giáo họ L, thấy vắng người, bị cáo dừng xe định mở gói ma túy ra xem thì bị tổ công tác Công an huyện K phát hiện, bắt quả tang, thu giữ của bị cáo gói nhỏ nêu trên, bị cáo khai nhận đó là gói hê rô in bị cáo vừa mua để sử dụng cho bản thân. Kiểm tra gói nhỏ thu giữ của bị cáo bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng, cân xác định khối lượng là 0,31 gam ký hiệu M, gửi toàn bộ đi giám định.

Bản kết luận giám định số 331/KLGĐ-PC09-MT ngày 26/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi tới giám định ký hiệu M có khối lượng 0,3107gam là ma túy, loại hê rô in.

Bản cáo trạng số 70/CT-VKS-KS ngày 22/7/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Chu Minh D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát huyện K vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung cáo trạng nêu trên và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Chu Minh D phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý ”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51BLHS;

điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS xử phạt bị cáo Chu Minh D từ 18 đến 21 tháng tù.

Về xử lý vật chứng và áp dụng các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 BLHS; Căn cứ Điều 106 BLTTHS năm 2015.

Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì ghi số 331/KLGĐ-PC09-MT, trên giáp lai có chữ ký của đại diện bên giao, bên nhận và đóng dấu của Phòng kỹ thuạt hình sự công an tỉnh Ninh Bình, bên trong có vật chứng còn lại sau giám định cùng vỏ niêm phong; 01 phong bì niêm phong, trên phong bì có dấu niêm phong và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong, bên trong có 01 vỏ giấy bạc màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã thu giữ khi bắt quả tang bị cáo.

- Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sựNghị quyết 326/2016/UBTVQH14 miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Chu Minh D do thuộc đối tượng hộ cận nghèo.

Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình như nội dung bản cáo trạng. Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay bị cáo Chu Minh D hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Bị cáo khai nhận bản thân bắt đầu sử dụng lại ma tuý từ cuối năm 2020 bằng hình thức hít hê rô in. Buổi sáng ngày 20/4/2021 sẵn có tiền trong người và lại có nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo đi xe mô tô từ nhà qua đò 10 sang khu vực xã C và xã K huyện K tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây bị cáo gặp một người đàn ông không quen biết khoảng 50 tuổi, đoán là người nghiện ma túy nên đã hỏi và mua được của người đó 01 gói hêrôin với giá 500.000đ, sau khi mua được hê rô in bị cáo cầm ở tay điều khiển xe đi trở về. Khi đi đến trước cổng nhà thờ giáo họ L, thấy vắng người, bị cáo dừng xe định lấy gói ma túy ra xem thì bị công an kiểm tra phát hiện, thu giữ gói hê rô in bị cáo vừa mua và lập biên bản phạm tội quả tang đối với bị cáo.

Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, biên bản cân xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định, kết luận giám định gói bột thu giữ của bị cáo.

Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận: Hồi 07 giờ 15 phút ngày 20/4/2021, tại thôn L, xã X, huyện K, tỉnh Ninh Bình Chu Minh D có hành vi cất giữ trái phép trong người 0,3107 gam heroine để sử dụng cho bản thân.

Heroin là chất ma túy có số thứ tự 09 thuộc Bảng danh mục I ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ – CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ.

Hành vi của bị cáo Chu Minh Dũng đã phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm :

c, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo mang tính chất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến việc quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất ma túy vì vậy cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo trước pháp luật, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện mới đủ điều kiện để cải tạo đối với bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo là người đang có tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích nay lại phạm tội, đây là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS; Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo khai báo thành khẩn, tự giác giao nộp gói hê rô in cho cơ quan công an và khai nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo thuộc hộ cận nghèo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015.

[4] Về nguồn gốc Hêrôin: Bị cáo khai mua của một người đàn ông khoảng 50 tuổi ở khu vực ngã ba giáp danh giữa xã C với xã X, bị cáo không quen biết người đó, có gặp lại cũng không nhận dạng được vì vậy cơ quan điều tra Công an huyện K không đủ cơ sở để điều tra.

[5] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Chiếc xe mô tô mà bị cáo sử dụng đi mua hê rô in có BKS 18K1- 026.66 đăng ký xe mang tên Công ty TNHH N có trụ sở tại thị trấn N, huyện N, tỉnh Nam Định, công ty N đã bán chiếc xe này cho người đàn ông không rõ địa chỉ từ năm 2015. Qua lời khai của chị Trần Thị T (vợ bị cáo) thì gia đình chị mua lại chiếc xe trên tại một cửa hàng sửa xe máy tại huyện N vào khoảng tháng 3/2021 nhưng không làm giấy tờ mua bán. Hiện chị T không chứng minh được mình là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe trên vì vậy cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện K đã tách phần tài liệu có liên quan đến chiếc xe trên để điều tra, xử lý sau.

Vật chứng hiện còn gồm 01 phong bì ghi số 331/KLGĐ-PC09-MT bên trong có vật chứng còn lại sau giám định cùng vỏ niêm phong; 01 phong bì niêm phong, bên trong có 01 vỏ giấy bạc màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu thu giữ khi bắt quả tang bị cáo, đây là vật cấm lưu hành và là vật không còn giá trị sử dụng vì vậy cần tịch thu cho tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện hành vi tố tụng hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật.

Vì lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

+ Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Chu Minh D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Chu Minh D 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 20/4/2021.

Về xử lý vật chứng và áp dụng các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 BLHS; Căn cứ Điều 106 BLTTHS năm 2015.

- Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì ghi số 331/KLGĐ-PC09-MT, trên giáp lai có chữ ký của đại diện bên giao, bên nhận và đóng dấu của Phòng kỹ thuạt hình sự công an tỉnh Ninh Bình, bên trong có vật chứng còn lại sau giám định cùng vỏ niêm phong; 01 phong bì niêm phong, trên phong bì có dấu niêm phong và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong, bên trong có 01 vỏ giấy bạc màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã thu giữ khi bắt quả tang bị cáo.

(Chi tiết vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 23/7/2021 giữa cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện K với Chi cục THADS huyện K) Về án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Chu Minh D.

Trường hợp bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người có quyền, nghĩa vụ thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 68/2021/HS-ST

Số hiệu:68/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về