Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 56/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P - TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 56/2022/HS-ST NGÀY 19/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P xét xử công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số 22/2022/TLST-HS ngày 18 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2022/QĐXXST HS ngày 05 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: NGUYỄN VĂN T, Giới tính: nam; Tên gọi khác: Tài Leo. Sinh ngày: 14/02/1988, tại Bình Thuận.

Nơi ĐKHKTT: khu phố 1, phường H, thành phố P, Bình Thuận.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không. Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ học vấn: 05/12.

Con ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1951 Con bà Bùi Thị N, sinh năm 1951 Vợ, con: chưa có Anh chị em ruột: Có 05 người, bị cáo là con thứ tư trong gia đình.

Tiền án, tiền sự: không. Nhân thân: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Bình Thuận.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma tuý nên vào khoảng 02 giờ 30 phút ngày 01/06/2020 Nguyễn Văn T đi bộ đến nhà của Trần Đăng S (sinh năm 1997, trú tại khu phố 1 phường H, thành phố P) để mua ma tuý. Khi gặp S, T hỏi mua 200.000 đồng ma túy để sử dụng, T nói với S không có tiền Việt Nam đồng mà chỉ có tờ 10USD rồi đưa tờ tiền 10USD cho S, lúc này Nguyễn Xuân H (sinh năm 1993, trú tại khu phố 5, phường L, thành phố P, tỉnh Bình Thuận) đang ở trong nhà S. Sau khi nhận tiền từ Tài, S dẫn T đi vào trong nhà gặp H, S đưa tờ tiền 10 usd cho H và nói: “Làm một cái 200.000 đồng”. H hiểu là T muốn mua ma tuý nên nhận tờ 10 usd xong thì nói S làm cái bao (tức làm gói nylon để đựng ma túy đá) cho H, S dùng kéo, nylon cắt hàn gói nylon xong đưa cho H. H lấy ma túy đá trong gói ma túy của mình cho vào gói nylon S vừa làm rồi đưa cho S hàn lại thành gói ma túy đá rồi giao cho T. T nhận ma tuý xong đem về nhà cất giữ để sử dụng.

Đến khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 01/6/2020, Công an phường H, thành phố P tiến hành kiểm tra hành chính nhà Nguyễn Văn T tại khu phố 1, phường H, thành phố P, thì phát hiện T có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Công an phường H đã lập biên bản sự việc, tạm giữ tang vật liên quan gồm:

01 (một) gói nylon không màu, hàn kín, kích thước khoảng (01 x 03) cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng (thu giữ trên bàn gỗ cạnh giường, trong phòng ngủ của Nguyễn Văn T, ký hiệu M khi giám định).

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn T, Nguyễn Xuân H, Trần Đăng S đã khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Tại bản kết luận giám định số 584 ngày 10/06/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,2170 gam; là Methamphetamine.

Xử lý vật chứng: Đối với các mẫu ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 584, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo N và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận. Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã ra Quyết định chuyển đến Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Pbảo quản, chờ xử lý.

Đối với tờ tiền 10 usd, quá trình điều tra xác định Nguyễn Xuân H đã đem cho người tên Tùng (không rõ nhân thân) nên không thu hồi được.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố theo Cáo trạng số 17/CT/VKSPT-HS ngày 10/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 12 tháng đến 18 tháng tù.

Xử lý vật chứng: Đối với các mẫu ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 584, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo N và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận. Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã ra Quyết định chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P bảo quản, chờ xử lý.

Đối với tờ tiền 10USD, quá trình điều tra xác định được Nguyễn Xuân H đã đem cho người tên T (không rõ nhân thân) nên không thu hồi được.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài iệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau;

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng và đầy đủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tổ tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo và những người tham gia không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Về căn cứ buộc tội bị cáo: tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu, bị cáo thừa nhận Cáo trạng truy tố là đúng, không oan. Lời khai nhận này của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận đây là vụ án “ Tàng trữ trái phép chất ma túy ” do Nguyễn Văn T thực hiện. Vào lúc 02 giờ 30 ngày 01/06/2020, tại khu phố 1 phường H, thành phố P, Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,2170 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện thu giữ.

Vì vậy Cáo trạng số 17CT/VKSPT - HS ngày 10/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3]. Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Nguyễn Văn T là công dân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được Methamphetamine (Ma túy đá) là loại chất gây nghiện nằm trong danh mục Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, tàng trữ, mua bán, sử dụng trái phép, vì hậu quả nguy hại của nó đối với sức khỏe con người trong cộng đồng và trật tự trị an xã hội. Tuy nhận thức được điều này nhưng bị cáo là con nghiện, khi đến cơn bị cáo có nhu cầu sử dụng để thỏa mãn cơn nghiện nên bị cáo bất chấp sự trừng trị của pháp luật, bất chấp hậu quả mà ma túy mang lại. Bị cáo đã tàng trữ một số lượng ma túy là 0,2170 gam Methamphetamin và bị bắt quả tang. Hành vi của bị cáo là cố ý, đã gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh, trật tự trị an tại địa phương. Do đó cần thiết phải xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: khi quyết định hình phạt sẽ xem xét cho bị cáo, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo có nhân thân tốt.

Trên cơ sở cân nhắc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo xét thấy: Hành vi của bị cáo gây nguy hại cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương nên cần xử lý bằng một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của của bị cáo, mức hình phạt này không chỉ nhằm trừng trị bị cáo mà còn giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới. Ngoài ra mức hình phạt đối với bị cáo còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm chung.

Đối với Nguyễn Xuân H và Trần Đăng S, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố đối với H và S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tại bản Cáo trạng số 199, ngày 11 tháng 11 năm 2021. Hiện Tòa án nhân dân thành phố P đã ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử đối với Nguyễn Xuân H và Trần Đăng S.

[5]. Về ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P: về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt là tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng của vụ án:

Đối với các mẫu ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 584, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo N và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận, cũng là vật chứng của vụ “Mua bán trái phép chất ma túy” đối với Nguyễn Xuân H và Trần Đăng S, sẽ được xử lý khi xét xử vụ án này.

Về án phí: bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1].Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn T 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/12/2021.

[2]. Xử lý vật chứng: mẫu ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 584, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo N và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận cũng là vật chứng của vụ “Mua bán trái phép chất ma túy” đối với Nguyễn Xuân H và Trần Đăng S, sẽ được xử lý khi xét xử vụ án này.

(Tất cả tang vật chứng đều như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 70, ngày: 09/5/2022 giữa Công an thành phố P và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố P).

[3]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

[4]. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (19/4/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 56/2022/HS-ST

Số hiệu:56/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về