Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 49/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ D, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 49/2022/HS-ST NGÀY 23/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 23 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 400/2021/TLST- HS ngày 21 tháng 12 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2022, đối với bị cáo: Nguyễn Tuấn K, sinh năm 2002 tại tỉnh Đồng Nai; thường trú: Khu phố, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 7/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; cha không rõ và bà Nguyễn Thị C, sinh năm: 1975; có 01 anh sinh năm 1999; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 05/10/2021, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người chứng kiến: Trần Minh S; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 25/03/2019, Nguyễn Tuấn K điều khiển xe gắn máy biển số: 60V6-7979 đến khu vực chợ Đ thuộc thành phố B, tỉnh Đồng Nai gặp phụ nữ không rõ lai lịch mua 400.000 đồng ma túy đá, người phụ nữ đưa cho K 02 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng. K cất giữ ma túy vào túi quần trước bên trái đang mặc rồi chạy xe về nhà. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, Nguyễn Tuấn K lấy số ma túy đi tìm bạn để cùng sử dụng, khi đi đến khu phố Q, phường B, thành phố D, gặp lực lượng Công an tuần tra phát hiện. Qua kiểm tra phát hiện trong túi quần trước bên trái của K đang mặc có 02 gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, K khai nhận là ma túy đá. Công an phường B tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại bản Kết luận giám định số 266/MT-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,2934 gam, loại Methamphentamine.

Bản kết luận giám định số pháp y về độ tuổi số: 0299/ĐT/2019 ngày 05/04/2019 của Trung tâm giám định pháp y – Sở y tế tỉnh Đồng Nai kết luận độ tuổi của Nguyễn Tuấn K là 17 tuổi 06 tháng (+/- 06 tháng) kể từ ngày 05/04/2019. Tại thời điểm phạm tội Nguyễn Tuấn K đã trên 16 tuổi.

Khi thực hiện hành vi phạm tội Nguyễn Tuấn K chưa đủ 18 tuổi nên áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, K không chấp hành, bỏ trốn khỏi địa phương. Ngày 01/11/2019, ra Quyết định truy nã số 51. Ngày 04/10/2021, Nguyễn Tuấn K bị bắt đưa vào Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai.

Người phụ nữ bán ma túy cho Nguyễn Tuấn K hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Tại cáo trạng số 19/CT–VKS-DA ngày 20 tháng 12 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn K mức án từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.

Xử lý vật chứng:

- Đối với bì thư đã niêm phong bên trong có 0,1822 gam ma túy loại Methamphetamine mẫu vật còn lại sau giám định đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe gắn máy biển số: 60V6-7979 số máy VNALC150FMG 000406, số khung không rõ, K khai nhận mua lại của người đàn ông tên Q không rõ nhân thân lai lịch. Qua xác định xe gắn máy trên không rõ nguồn gốc, đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu theo quy định nhưng đến nay vẫn chưa có ai đến nhận nên đề nghị tịch thu sung ngân sách nhà nước theo quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, nên không tranh luận và đối đáp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì. Tại cơ quan điều tra, người chứng kiến không có ý kiến gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nội dung vụ án: Hành vi tàng trữ trái phép khối lượng 0,2934 gam ma túy, loại Methamphetamine. Hành vi phạm tội trên đây của Nguyễn Tuấn K đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Như vậy Cáo trạng số 19/CT–VKS-DA ngày 20 tháng 12 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo nhân thân xấu nghiện ma túy.

[7] Xử lý vật chứng: Xét bì thư đã niêm phong bên trong có 0,1822 gam ma túy loại Methamphetamine mẫu vật còn lại sau giám định, cần tịch thu tiêu hủy. Xe gắn máy biển số 60V6-7979, số máy VNALC150FMG 000406, số khung không rõ. Xe gắn máy trên không rõ nguồn gốc, đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu theo quy định, nhưng đến nay vẫn chưa có ai đến nhận nên tịch thu sung ngân sách Nhà nước theo quy định.

[8] Mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp với tính chất mức độ và nhân thân của bị cáo, nên Hội đồng xét xử quyết định mức hình phạt trong mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị.

[9] Đối với người phụ nữ bán ma túy cho Nguyễn Tuấn K hiện chưa rõ nhân thân, khi nào xác minh được s tiến hành xử lý sau.

[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn K phạm tội tàng trữ trái phép chất ma Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn K 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/10/2021.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy bì thư đã niêm phong bên trong có 0,1822 gam ma túy loại Methamphetamine mẫu vật còn lại sau giám định.

Tịch thu ngân sách Nhà Nước 01 xe gắn máy biển số 60V6-7979, số máy VNALC150FMG 000406, số khung không rõ.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/12/2021, bút lục 106).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Tuấn K phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 49/2022/HS-ST

Số hiệu:49/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về