Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 46/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 46/2021/HS-ST NGÀY 06/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 06 tháng 4 năm 2021 tại Phòng xử án Tòa án nhân dân Quận 7 xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 11/2021/HSST ngày 22 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2021/QĐXXST-HS ngày 09/3/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Trọng Đ, sinh năm 1984 tại Hà Nội; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Lai X, xã Kim C, huyện Hoài Đ, Thành phố Hà Nội (nơi đăng ký hộ khẩu thường trú (cũ): Tổ 31, phường Thanh L, quận Hai Bà Tr, Thành phố Hà Nội); Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Làm thuê; họ và tên cha: Nguyễn Trọng Đ, sinh năm 1952; họ và tên mẹ: Đỗ Thị T, sinh năm 1950; bị cáo có 03 chị; vợ, con: chưa; tiền án: Không; tiền sự: không.

Nhân thân:

Bản án số 603/2002/HSST ngày 21/8/2002 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và Bản án số 1724/PTHS ngày 26/11/2002 của Tòa án nhân dân tối cao Hà Nội, xử phạt 02 năm tù về tội "Cướp giật tài sản", chấp hành xong án phạt tù ngày 30/3/2004.

Bản án số 247/2005/HSST ngày 21/6/2005 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, xử phạt 36 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy", chấp hành xong án phạt tù ngày 28/12/2007.

Bản án số 354/2008/HSST ngày 29/8/2008 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, xử phạt 07 năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", chấp hành xong án phạt tù ngày 14/01/2014.

Ngày 22/12/2017 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Quốc ra Quyết định đình chỉ điều tra vụ án số 01/QĐ-CQĐT và Quyết định đình chỉ điều tra bị can số 06/QĐ-CQĐT đối với Nguyễn Trọng Đ về tội cố ý gây thương tích và ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội, đã chấp hành nộp phạt ngày 25/12/2017.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/6/2020 đế n nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1994; địa chỉ: X11, Minh Thành, Yên Thành, Nghệ An (vắng mặt).

- Ông Huỳnh Văn Đ, sinh năm 1990 và ông Huỳnh Văn Ph, sinh năm 1970;

cùng địa chỉ: Ấp 1, xã Phước Khánh, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 01 giờ 00 phút ngày 17/6/2020, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an Quận 7, tuần tra đến tại ngã ba đường Huỳnh Tấn Phát với Gò Ô Môi, phường Phú Thuận, Quận 7, phát hiện bắt quả tang Nguyễn Trọng Đ, có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thu giữ trong tay trái của Đ có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, có khối lượng: 4,7198g là ma túy ở thể rắn, loại Methaphetamine. Tiến hành kiểm tra nơi cư trú của Đ tại Phòng 302, Nhà số 1102 Huỳnh Tấn Phát, Khu phố 4, phường Tân Phú, Quận 7, tiếp tục thu giữ 19 gói nylon chứa tinh thể không màu, gồm: 17 gói ‘m2.1’, có khối lượng 30,2030g là ma túy ở thể rắn, loại Methaphetamine;

01 gói ‘m2.2’ có khối lượng 59,7913g là mẫu phức tạp, 01 gói ‘m2.3’ có khối lượng 19,51337 là mẫu phức tạp; 10 viên nén màu hồng, có khối lượng 1,0383 là mẫu phức tạp và 08 viên nén màu nâu, có khối lượng 3,826g là ma túy ở thể rắn, loại MDMA.

Tại Cơ quan quan cảnh sát điều tra Công an Quận 7, Đ khai nhận: Số ma túy công an thu giữ của Đ lúc bắt quả tang và thu giữ khi kiểm tra nơi cư trú là của Đ tàng trữ nhằm mục đích sử dụng. Nguồn ma túy do Đ mua của người chơi game có nick “Ngọc sát thủ”, khi chơi game: CrossFire Legends”, Đ liên lạc nhắn tin đặt mua ma túy, nick “Ngọc sát thủ” thường hẹn Đ đến đường Quang Trung, quận Gò Vấp để giao dịch mua bán ma túy. Do các lần mua bán ma túy đều là ban đêm và trời mưa nên Đ không biết đặc điểm của đối tượng bán ma túy.

Vật chứng vụ án:

- 01 gói niêm phong. Kết luận giám định số 1016/KLGĐ-H ngày 25/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận về đối tượng giám định: Gói 1: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Trọng Đ và hình dấu Công an phường Phú Thuận, Quận 7 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng: 4,7198g (Bốn phẩy bảy một chín tám gam) là ma túy ở thể rắn, loại Methaphetamine;

- 01 gói niêm phong. Kết luận giám định số 1016/KLGĐ-H ngày 25/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận về đối tượng giám định: Gói 02 được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Trọng Đ và hình dấu Công an phường Tân Phú, Quận 7, bên trong gồm có:

+ Tinh thể trong 17 gói nylon (Ký hiệu mẫu m2.1) cần giám định đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 30,2030g (ba không phẩy hai không ba không gam), loại Methaphetamine.

+ Tinh thể trong 01 gói nylon (Ký hiệu mẫu m2.2) cần giám định, có khối lượng 59,7913g (năm chín phẩy bảy chín một ba gam), không tìm thấy ma túy.

+ Tinh thể trong 01 gói nylon (Ký hiệu mẫu m2.3) cần giám định, có khối lượng 19,5137g (một chín phẩy năm một ba bảy gam), không tìm thấy ma túy.

- 08 viên nén màu nâu trong 01 gói nylon (Ký hiệu mẫu m3) cần giám định, đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 3,8261g (ba phẩy tám hai sáu một gam), loại MDMA.

- 10 viên nén màu hồng trong 01 gói nylon (Ký hiệu mẫu m4), cần giám định đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng: 1,0383g (một phẩy không ba tám ba gam), loại Methaphetamine.

- 01 điện thoại di động hiệu Redmi, màu tím có số thuê bao: 0971034078;

- 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter 150 màu xanh, biển số 60C2-438.00, số máy G3D4E415688, số khung RLCUG0610HY396582. Qua xác minh xe có số máy G3D4E415688, số khung RLCUG0610HY396582 mang biển số 37P1-424.43 do Nguyễn Văn T, sinh năm 1994, địa chỉ: X11, Minh Thành, Yên Thành, Nghệ An đứng tên đăng ký chủ xe, hiện Nguyễn Văn T vắng mặt tại địa phương, không biết đi đâu, ở đâu và làm gì; Biển số 60C2-438.00, có số máy: E3T6E109410, số khung: RLCUE1710GY072309 do Huỳnh Văn Đức, sinh năm 1990, địa chỉ: Ấp 1, Phước Khánh, Nhơn Trạch, Đồng Nai đứng tên đăng ký chủ xe. Ông Huỳnh Văn Ph (cha ruột của Huỳnh Văn Đ) khai: xe máy Biển số 60C2-438.00, có số máy: E3T6E109410, số khung: RLCUE1710GY072309 là của con trai ông tên Huỳnh Văn Đ đứng tên chủ sở hữu, bị mất vào ngày 06/6/2020, ông có đến Công an trình báo sự việc nhưng đến nay vẫn chưa tìm thấy xe, Đ đi du học bên Nhật từ năm 2017 cho đến nay. Ông không có yêu cầu gì đối với biển số xe 60C2-438.00. Nguyễn Trọng Đ khai xe này Đ mua của một người tên thường gọi là Hải cá (không rõ nhân thân lai lịch). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7 đã đăng tin tìm chủ sở hữu chiếc xe trên. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa tìm được.

Tại bản Cáo trạng số 11/CT-VKSQ7 ngày 21/01/2021, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm h Khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận số ma túy bị cáo mang theo trên người khi bị bắt quả tang và tại nhà là mua để sử dụng; chiếc điện thoại Redmi, màu tím có số thuê bao: 0971034078 bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy; xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter 150 màu xanh, biển số 60C2-438.00, số máy G3D4E415688, số khung RLCUG0610HY396582 bị cáo mua của một người tên thường gọi là Hải cá, không rõ nhân thân, lai lịch.

Trong phần tranh luận, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm h Khoản 3 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: đề nghị xử phạt bị cáo từ 11 năm tù đến 12 năm tù.

Xử lý vật chứng:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy gói niêm phong ma túy số 1016/2020 và 01 biển số xe 60C2-438.00;

- Đề nghị tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Redmi, màu tím.

- Tiếp tục đăng tin tìm chủ sở hữu hơp pháp đối với chiếc xe gắn máy thu giữ của bị cáo.

Bị cáo khai báo về hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã được tóm tắt như trên, không tự bào chữa, không tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm t ra tại phiên tòa;

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, Luật sư bào chữa, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 7, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, các đương sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, căn cứ Kết luận giám định số 1016/KLGĐ-H ngày 25/6/2020 xét có đủ cơ sở để kết luận bị cáo đã mua 02 loại ma túy sau:

- Methaphetamine: 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, có khối lượng: 4,7198g (bốn phẩy bảy một chín tám gam); 17 gói nylon chứa tinh thể không màu, có tổng khối lượng 30,2030g (ba không phẩy hai không ba không gam); 10 viên nén màu hồng, có tổng khối lượng: 1,0383g (một phẩy không ba tám ba gam), đều là ma túy ở thể rắn;

- MDMA: 08 viên nén màu nâu đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 3,8261g (ba phẩy tám hai sáu một gam).

Do đó, đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp quy định tại Điểm h Khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và nguy hiểm cho xã hội vì tội phạm về ma túy gây tác hại lớn cho con người và xã hội, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo nhận thức rõ được tác hại của việc mua bán ma túy nhưng để có ma túy sử dụng nên đã thực hiện hành vi phạm tội.

Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng 03 lần kết án về các tội về ma túy và cướp giật tài sản, 01 lần bị xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự và an toàn xã hội.

Song xét vì trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo; Do bị cáo phạm tội tàng trữ nên miễn hình phạt tiền cho bị cáo.

[4] Xử lý vật chứng:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Redmi, màu tím là phương tiện bị cáo dùng để liên lạc, sử dụng khi mua ma túy nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

- Tịch thu tiêu hủy gói niêm phong ma túy vụ số 1016/2020 và 01 biển số xe 60C2-438.00.

- Đối với chiếc xe gắn máy thu giữ của bị cáo, hiệu Yamaha, số loại Exciter, màu xanh bạc đen, loại xe 02 bánh từ 50-175cm3, dung tích xi-lanh 149, số máy G3D4E415688, số khung RLCUG0610HY396582, mang biển số 37P1-424.43 do Nguyễn Văn T, sinh năm 1994, địa chỉ: X11, Minh Thành, Yên Thành, Nghệ An đứng tên đăng ký chủ xe, hiện Nguyễn Văn T vắng mặt tại địa phương, không biết đi đâu, ở đâu và làm gì. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7 đã đăng tin tìm chủ sở hữu chiếc xe trên. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa tìm được. Do vậy, tiếp tục đăng tin tìm chủ sở hữu hợp pháp theo quy định.

Đối với người bán ma túy cho Nguyễn Trọng Đ, giao dịch mua bán ma túy liên lạc nhắn tin qua địa chỉ chơi game có nick “Ngọc sát thủ”, khi chơi game: CrossFire Legends”, địa điểm giao nhận tại đường Quang Trung, quận Gò Vấp. Do không xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7 tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý sau.

[6] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ vào Điểm h Khoản 3 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trọng Đ 11 (mười một) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 17/6/2020.

2. Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

2.1. Tịch thu tiêu hủy:

- 02 (hai) gói niêm phong ma túy vụ số 1016/2020 - 01 (một) biển số xe 60C2-438.00 2.2. Tịch thu sung quỹ Nhà nước Redmi, số Model: M1901F7G.

2.3. Tiếp tục đăng tin tìm kiếm chủ sở hữu hơp pháp đối với chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter 150 màu xanh, biển số 60C2-438.00, số máy G3D4E415688, số khung RLCUG0610HY396582 2.4. Thông báo trong thời hạn 60 (sáu mươi) ngày trên phương tiện thông tin đại chúng đối với chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha, số loại Exciter, màu xanh bạc đen, loại xe 02 bánh từ 50-175cm3, dung tích xi-lanh 149, số máy G3D4E415688, số khung RLCUG0610HY396582, mang biển số 37P1-424.43, để tìm chủ xe hợp pháp. Qúa hạn thông báo mà chưa tìm được chủ xe, giao cho Ủy ban nhân dân Quận 7 xử lý theo qui định về tài sản vắng chủ.

(Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 40 ngày 11/01/2021)

3. Về án phí: Căn cứ vào các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

4. Về quyền, nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014.

5. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án, bị cáo, các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 46/2021/HS-ST

Số hiệu:46/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về