Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 36/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 36/2024/HS-ST NGÀY 06/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 03 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng và điểm cầu thành phần phòng xét xử trực tuyến Trại tạm giam - Công an thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 25/2024/TLST-HS ngày 06 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2024/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:

Trần Xuân H, sinh ngày 18/4/1975 tại Hải Phòng; nơi cư trú: Số 18/5 CT2A8, tổ dân phố 6, phường Q, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Q, sinh năm 1937, con bà Ngô Thị D (đã chết), bị cáo khai có vợ là Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1983 (đã ly hôn), có 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 03/11/2023, tạm giam từ ngày 09/11/2023; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 03/11/2023, Công an xã An Hồng, huyện An Dương làm nhiệm vụ đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn phát hiện Trần Xuân H điều khiển xe mô tô nhãn hiện Yamaha Taurus BKS: 16N9 – X có biểu hiện nghi vấn. Công an xã yêu cầu dừng xe tiến hành kiểm tra phát hiện và thu giữ trong lòng bàn tay trái của H 01 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng (Mẫu QT1) và 01 túi nilon màu tím bên trong có gói giấy bạc chứa chất bột màu trắng (Mẫu QT2), H khai chất bột màu trắng là heroine. Công an xã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, đồng thời đưa H cùng vật chứng về trụ sở Cơ quan công an giải quyết.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Xuân H nhưng không thu giữ được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án.

Kết quả xét nghiệm chất ma túy ngày 03/11/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: Trần Xuân H dương tính với chất ma túy Morphine, Heroine.

Kết luận giám định số: 888/KL-KTHS ngày 07/11/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: Chất bột màu trắng (Mẫu QT1) qua giám định là ma tuý loại heroine, có khối lượng 0,11gam; chất bột màu trắng (Mẫu QT2) qua giám định là ma tuý loại heroine, có khối lượng 0,19gam.

Tại bản kết luận giám định số 1189/KL-KTHS ngày 21/11/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: Xe mô tô Yamaha Taurus BKS: 16N9 – X, có số khung: RLCS16S109Y026336, số máy: 16S1-026342 là số nguyên thủy, không bị tẩy xóa hoặc sửa chữa các ký tự.

Tại phiếu trả lời xác minh xe ngày 11/01/2023 của Công an huyện An Dương xác định: Người đứng tên đăng ký xe mô tô BKS: 16N9 – X là Nguyễn Quang Tuấn; trú tại: Bình Minh, Hợp Đức, quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.

Tại thông báo tra cứu kết quả tra cứu xe máy vật chứng ngày 18/01/2024 của Công an huyện An Dương xác định: Xe mô tô BKS: 16N9 – X, có số khung: RLCS16S109Y026336, số máy: 16S1-026342 không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng.

Tại cơ quan điều tra Trần Xuân H khai nhận: Do nghiện ma túy nên khoảng 10 giờ ngày 03/11/2023, H điều khiển xe mô tô Yamaha Taurus BKS: 16N9 – X đi đến khu vực ngõ 30 đường Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, Hải Phòng gặp và mua của một người phụ nữ không rõ lai lịch 300.000 đồng được 02 gói heroine mục đích để sử dụng. H cất giấu 02 gói ma túy trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi về đến thôn Ngô Yến, xã An Hồng, huyện An Dương, Hải Phòng thì bị Công an kiểm tra phát hiện bắt giữ cùng vật chứng. Xe mô tô Yamaha Taurus BKS: 16N9 – X, H mượn của một người nam giới tên Nam từ khoảng tháng 5/2023 để sử dụng nhưng sau đó không liên lạc được với Nam. H không biết lai lịch, địa chỉ của Nam.

Tại bản Cáo trạng số: 43/CT-VKS ngày 05/02/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng truy tố Trần Xuân H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo Trần Xuân H đã khai nhận hành vi phạm tội như đã khai tại cơ quan điều tra và nội dung Cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Xuân H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trần Xuân H mức án từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy phong bì được niêm phong bên trong chứa lượng ma tuý còn lại sau giám định.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ thể hiện: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 03/11/2023, Trần Xuân H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,30 gam heroine mục đích để sử dụng bị bắt quả tang tại thôn Ngô Yến, xã An Hồng, huyện An Dương, nên đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Trần Xuân H đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, vi phạm điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an xã hội đồng thời còn là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ: Nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội nghiêm trọng với lỗi cố ý trực tiếp, bản thân lại là người sử dụng ma tuý. Do vậy cần xét xử nghiêm, cách ly bị cáo một thời gian để có tác dụng cải tạo giáo dục riêng đối với bị cáo, đồng thời để bị cáo cai nghiện ma túy và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người sử dụng ma tuý, không có tài sản, thu nhập ổn định, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với lượng ma tuý còn lại sau giám định đã được niêm phong trong phong bì thư. Xét đây là vật chứng của vụ án bị cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Taurus BKS: 16N9 – X thu giữ của H, H khai mượn của một người tên Nam để sử dụng nhưng sau đó không liên lạc được và không biết lai lịch, địa chỉ của Nam. Xác minh xác định xe mô tô đứng tên Nguyễn Quang Tuấn, sinh năm 1986, trú tại Bình Minh, Hợp Đức, Đồ Sơn, Hải Phòng. Năm 2020 anh Tuấn đã bán chiếc xe mô tô này cho 01 người không quen biết. Cơ quan điều tra Công an huyện An Dương tiếp tục tạm giữ xe mô tô để xác minh, làm rõ xử lý sau.

[6] Đối với người phụ nữ bán ma túy, H khai không biết tên tuổi, lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Xuân H 21 (Hai mươi mốt) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 03/11/2023.

Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy lượng ma tuý còn lại sau giám định cùng toàn bộ vỏ bao được niêm phong số 888/MT/PC09.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/02/2024 giữa Công an huyện An Dương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Xuân H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 36/2024/HS-ST

Số hiệu:36/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:06/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về