Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 104/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 104/2021/HS-ST NGÀY 28/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 28/10/2021 tại phòng xử án Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh N mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 101/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 172/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn T, sinh ngày 09 tháng 02 năm 2002 tại thị xã HM, tỉnh N; tên gọi khác: Không; nơi cư trú: Thôn A, xã QL, thị xã HM, tỉnh N; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; con ông Lê Văn T, sinh năm: 1976 và bà Trần Thị K, sinh năm 1977; anh chị em ruột: Gia đình có 03 người, bị cáo là con thứ ba; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/8/2021 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

Anh Lê Duy L, sinh ngày 24/01/2003. Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn A, xã QL, thị xã HM, tỉnh N.

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Viết S, sinh năm 1957. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ ngày 06/8/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy, Lê Văn T gọi điện thoại cho nam thanh niên tên Th (khoảng 29 tuổi, trú tại thôn A, xã QL, thị xã HM, tỉnh N) hỏi chỗ mua ma túy. Khoảng 02 phút sau Th gọi điện lại bảo T lên trước chung cư Mường Thanh (thuộc khối Bắc Mỹ, phường Quỳnh Thiện, thị xã H, tỉnh N) và cho T số điện thoại của người bán ma túy. Lê Văn T gọi theo số điện thoại Th cho thì gặp một nam thanh niên không quen biết, T hỏi mua ma túy với số tiền 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) thì nam thanh niên đồng ý và hẹn T đến tầng 5 chung cư Mường Thanh lấy ma túy. Sau đó, T nhờ Lê Duy Lương (sinh năm 2003, trú tại thôn 2, xã QL, thị xã H, tỉnh N) chở đến chung cư Mường Thanh. Đến nơi thì Lương về còn T đi lên tầng 5 chung cư Mường Thanh. Tại đây, Lê Văn T đưa cho nam thanh niên 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) và nam thanh niên đưa lại cho T 01 (một) bao thuốc lá Thăng Long, bên trong có 01 (một) gói ni lông màu trắng chứa các hạt tinh thể màu trắng (nghi là ma túy đá). Lê Văn T cất giấu gói ma túy vào túi quần trước bên phải rồi đi thang máy xuống hầm chung cư thì bị tổ công tác Công an phường Quỳnh Thiện, thị xã H kiểm tra phát hiện trong túi quần trước bên phải có 01 (một) bao thuốc lá Thăng Long, bên trong có 01 (một) gói ni lông màu trắng chứa các hạt tinh thể màu trắng (nghi là ma túy đá). Lê Văn T khai nhận đó là ma túy mua về để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng, đồng thời tạm giữ của Lê Văn T 01 (một) điện thoại di động, đưa người cùng vật chứng về trụ sở làm việc. Sau đó, Công an phường Quỳnh Thiện đã chuyển Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã H giải quyết theo thẩm quyền.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã H, tỉnh N đã tiến hành trưng cầu giám định Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N về chất ma túy. Tại Kết luận giám định số: 1201/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 12/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: Các hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Lê Văn T gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Các hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Lê Văn T có khối lượng là 0,16 gam (không phẩy mười sáu gam).

Về vật chứng vụ án: 01 (một) bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, bên trong có 01 (một) gói ni lông màu trắng chứa ma túy (Methamphetamine) có khối lượng 0,16 gam (không phẩy mười sáu gam), đã tiến hành lấy mẫu 0,11 gam (không phẩy mười một gam) gửi đi giám định. Số ma túy còn lại 0,05 gam (không phẩy không năm gam).

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A11, màu xanh, Số Imel1: 356418119369779, số Imel2: 356418119369777, đã qua sử dụng thu giữ của Lê Văn T.

- Tại bản cáo trạng số 106/CT-VKS-HM ngày 11 tháng 10 năm 2021 đã truy tố bị cáo Lê Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên toà, đại diện VKSND thị xã H vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS đề nghị xử phạt bị cáo Lê Văn T mức án từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS.

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì bưu điện bên trong có chứa 0,05 gam ma túy Methamphetamine còn lại sau khi lấy mẫu giám định và các vỏ niêm phong cũ.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy A11, màu xanh đã qua sử dụng thu giữ của Lê Văn T.

Về án phí: Bị cáo Lê Văn T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

- Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn T khai nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng truy tố. Bị cáo không có tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên toà, bị cáo Lê Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã truy tố. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ, tài liệu, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng có tại hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 23 giờ 15 phút ngày 06/8/2021, tại khu vực hầm chung cư Mường Thanh (thuộc khối Bắc Mỹ, phường Quỳnh Thiện, thị xã H, tỉnh N), Lê Văn T có hành vi cất giữ 0,16 gam (không phẩy mười sáu gam) ma túy (Methamphetamine) với mục đích sử dụng thì bị Tổ công tác Công an phường Quỳnh Thiện, thị xã H bắt quả tang. Bị cáo Lê Văn T không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép tàng trữ chất ma túy. Bị cáo Lê Văn T có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. HĐXX xét thấy hành vi của bị cáo Lê Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS như cáo trạng tuy tố là đúng người, đúng pháp luật.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo Lê Văn T có tính chất nghiêm trọng. Đã trực tiếp xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước. Mặc dù bị cáo nhận thức được ma túy là chất gây nghiện, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, nòi giống và nhân cách con người, làm băng hoại đạo đức xã hội. Là một trong các nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Nên pháp luật hình sự Nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy. Nhưng vì nghiện ma túy nên bị cáo đã đi vào con đường phạm tội. Do đó, cần phải lên mức án nghiêm đối với bị cáo, cần thiết phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo mới đủ trừng trị, đồng thời giáo dục bị cáo, răn đe, phòng ngừa chung tội phạm.

[4]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo có công cứu giúp người bị nạn là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS. Do đó cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo T thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên Tòa bị cáo khai không có thu thập ổn định, hiện tại không có tài sản để đảm bảo thi hành án. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Xử lý vật chứng: Cơ quan công an có thu giữ của bị cáo Lê Văn T 01 (một) bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, bên trong có 01 (một) gói ni lông màu trắng chứa ma túy (Methamphetamine) khối lượng 0,16 gam, sau khi lấy mẫu giám định còn lại là 0,05 gam. HĐXX căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 của BLTTHS cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A11, màu xanh, Số Imel1:

356418119369779, số Imel2: 356418119369777, đã qua sử dụng thu giữ của Lê Văn T là phương tiện bị cáo liên lạc để mua ma túy căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 của BLTTHS tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn quy định của pháp luật.

[9]. Đối với Lê Duy L (sinh năm 2003, trú tại thôn B, xã QL, thị xã H, tỉnh N) điều khiển xe mô tô chở Lê Văn T đến chung cư Mường Thanh nhưng không biết việc Lê Văn T đi mua ma túy nên không phải chịu trách nhiệm hình sự. Đối với người đàn ông tên Thành cho Lê Văn T số điện thoại người bán ma túy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã H đã phối hợp với Công an phường QL xác minh được đối tượng Trần Văn Thành (sinh năm 1995, trú tại thôn 3A, xã QL, thị xã H, tỉnh N), tuy nhiên hiện nay Trần Văn Thành không có mặt tại địa phương, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã H sẽ tiếp tục điều tra xử lý sau.

[10]. Quá trình điều tra, Lê Văn T khai mua ma túy từ một nam thanh niên không rõ nhân thân, lai lịch cụ thể, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã H chưa làm việc được với Trần Văn Thành nên chưa xác minh làm rõ được, sẽ tiếp tục điều tra xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015.

Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời thạn tù tính từ ngày 07/8/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy một phong bì thư bưu điện dán kín viền xanh đỏ, kích thước (18x12cm) có đầy đủ chữ ký của hội đồng niêm phong và bị cáo Lê Văn T bên trong có 0,05 gam (không phẩy không năm gam) ma túy (Methamphetamine), được đựng trong một gói nilon trong suốt, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long, 01 túi nilon màu trắng và vỏ niêm phong ban đầu.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A11, màu xanh, Số Imel1: 356418119369779, số Imel2:

356418119369777, đã qua sử dụng của Lê Văn T.

Các vật chứng có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 12/10/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã H và chi cụ thi hành án dân sự thị xã H 3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

90
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 104/2021/HS-ST

Số hiệu:104/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về