TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 161/2024/HS-PT NGÀY 30/09/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP HÓA ĐƠN, CHỨNG TỪ THU NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 130/2024/TLPT-HS ngày 05 tháng 9 năm 2024 do có kháng cáo của bị cáo Trần Thị Quỳnh T, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2024/HS-ST ngày 25/7/2024 của Tòa án nhân dân quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
Bị cáo kháng cáo:
Trần Thị Quỳnh T, sinh năm 1989 tại thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Xóm C, thôn T, xã L, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đình V, sinh năm 1963 (chết năm 2004) và bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1970; có chồng là Bùi Đức Đ, sinh năm 1989 (đã ly hôn năm 2023) và có 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự, nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 97/2023/HS-ST ngày 01/6/2023, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 200.000.000 đồng về tội "Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước" (bị cáo đã thi hành xong hình phạt chính là số tiền phạt 200.000.000 đồng và 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm, không còn khoản nào); bị áp dụng biện pháp ngăn chặn "Cấm đi khỏi nơi cư trú" từ ngày 18/8/2023; có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1992 - Luật sư Công ty L thuộc Đoàn luật sư thành phố H; địa chỉ Văn phòng: số C phố M, Phường N, Quận H, thành phố Hà Nội; bà H1 có mặt, ông H vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Thị Quỳnh T có quen với Ngô Văn Đ1, sinh năm 1991, nơi thường trú: Thôn H, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng từ năm 2019. Khoảng tháng 8/2022, do T, Đ1 có khó khăn về tài chính nên đã bàn với nhau tìm mua lại Công ty của người khác để mua bán trái phép hóa đơn. T đã gặp Nguyễn Thị N (là người quen với T), sinh năm 1972, nơi thường trú: Xóm Đ, thôn L, xã L, huyện A, thành phố Hải Phòng, nơi ở hiện tại: Tổ G, thôn Đ, thị trấn A, huyện A, thành phố Hải Phòng để nhờ N tìm mua Công ty cho mình (T không nói cho N biết mua Công ty để mua bán hóa đơn), N đồng ý. Do N có quen với Phạm Văn T2, sinh năm 1962, địa chỉ cư trú: Tổ dân phố Q, phường H, quận Đ, thành phố Hải Phòng nên biết T2 đang là chủ sở hữu (người đại diện theo pháp luật) của Công ty trách nhiệm hữu hạn H2 (gọi tắt là Công ty H2) được đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử theo quy định của pháp luật. N trao đổi với T2 về việc T muốn mua lại Công ty H2 để kinh doanh, T2 đồng ý bán với giá 100.000.000 đồng, T đã thông báo cho Đ1 biết. Đ1 chuyển khoản cho T 100.000.000 đồng để mua Công ty H2. T đưa N 100.000.000 đồng để N đưa T2. Tuy nhiên, sau khi kiểm tra lại việc chấp hành pháp luật về thuế thì thấy Công ty H2 chưa kê khai thuế trong nhiều kỳ, muốn Công ty tiếp tục hoạt động thì phải kê khai bổ sung các kỳ còn thiếu, nộp phạt do kê khai muộn và chuyển Cơ quan quản lý thuế từ Cục T7 đến Chi cục thuế khu vực Đ - K. T trao đổi với N để N trao đổi lại với T2 là T sẽ thực hiện việc khai bổ sung các kỳ còn thiếu, nộp phạt do kê khai muộn và chuyển Cơ quan quản lý thuế cho Công ty H2, chi phí này sẽ trừ vào tiền mua Công ty H2, N đã trao đổi và được T2 đồng ý. T đã thực hiện công việc này hết số tiền 60.000.000 đồng, N đã trả lại T 60.000.000 đồng và đưa T2 40.000.000 đồng. T2 nhờ Phạm Thị T3 (là người quen với T2), sinh năm 1982, nơi thường trú: Tổ C, cụm E, phường Đ, Quận N, thành phố Hải Phòng, nơi ở hiện tại: số A Đ, phường C, quận H, Hải Phòng chuyển N nhận 01 dấu tròn, 01 USB chữ ký số, 01 giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty H2, 01 bản phô tô căn cước công dân mang tên Phạm Văn T2 để N chuyển T3, T3 chuyển lại Đ1 nhận, để Đ1 mở tài khoản đăng ký tên Công ty H2 mở tại Ngân hàng Q (Viết tắt: M) và được cấp số tài khoản 2338333888. Từ tháng 01/2023, T3 cùng Đ1 bắt đầu tìm kiếm người mua hóa đơn, T3 vào các Hội nhóm về kế toán trên các trang mạng xã hội để chào bán hóa đơn. Khi có khách hàng cần mua hóa đơn, T3 yêu cầu cung cấp các thông tin cần thiết, sau khi nhận được thông tin T3 chuyển Đ1 nhận, để Đ1 tiến hành xuất hóa đơn, ký, đóng dấu hoàn thiện và chuyển lại T3 để T3 giao khách hàng nhận. T3 sẽ thu lợi được số tiền bán hóa đơn 1,6% trên tổng giá trị hàng hóa dịch vụ chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng, khách hàng do T3 tìm kiếm được T3 sẽ tự hưởng không phải chia cho Đ1 và ngược lại. Sau khi người mua nhận được hóa đơn, chứng từ kèm theo sẽ chuyển tiền hàng hóa dịch vụ ghi trên hóa đơn (đã bao gồm thuế giá trị gia tăng) vào tài khoản đăng ký tên Công ty, số tài khoản 2338333888 để hợp thức hóa hóa đơn, chứng từ mua hàng hóa, dịch vụ. Sau khi nhận được tiền, Đ1 sẽ chuyển tiền từ tài khoản số 2338333888 đến tài khoản số 1028072311 đăng ký họ tên Lê Hoàng Đ2 (tài khoản của Đ2) mở tại Ngân hàng thương mại cổ phần NI (Viết tắt: VI). Sau đó, Đ2 sẽ chuyển tiền từ tài khoản của Đ2 sang tài khoản của khách hàng để tránh bị phát hiện việc mua bán hóa đơn.
Từ tháng 01/2023 đến tháng 3/2023, T3 và Đ2 đã bán ra 143 số hóa đơn giá trị gia tăng để 39 Doanh nghiệp có địa chỉ trụ sở tại nhiều tỉnh, thành phố mua. Trong đó có 01 hóa đơn bị Tổng Cục thuế không chấp nhận (hóa đơn số 81 ngày 28/02/2023, bán ra để Công ty cổ phần G mua), 05 hóa đơn Công ty H2 tự xóa bỏ, 09 hóa đơn Công ty H2 bị thay thế, còn lại 128 hóa đơn đã bán ra để 37 Doanh nghiệp, với tổng số tiền 30.234.484.602 đồng (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng); cụ thể như sau:
1. Bán 01 hóa đơn số 70 ngày 28/02/2023 để Công đoàn Công ty trách nhiệm hữu hạn K mua, số tiền 18.260.000 đồng.
2. Bán 08 hóa đơn, gồm các số 57, 58, 59, 60 ngày 25/02/2023, các số 112, 113, 114, 115 ngày 06/3/2023 để Công ty cổ phần Đ3 mua, tổng số tiền 1.486.674.573 đồng.
3. Bán 01 hóa đơn số 68 ngày 27/02/2023 để Công ty cổ phần Đ4 mua, số tiền 8.700.000 đồng.
4. Bán 03 hóa đơn, gồm các số 74, 75, 76 ngày 28/02/2023 để Công ty cổ phần Đ5 mua, số tiền 147.190.000 đồng.
5. Bán 01 hóa đơn số 129 ngày 16/3/2023 để Công ty cổ phần E mua, số tiền 30.600.000 đồng.
6. Bán 02 hóa đơn số 61 ngày 26/02/2023, số 62 ngày 27/02/2023 để Công ty cổ phần G1 mua, tổng số tiền 34.785.000 đồng.
7. Bán 02 hóa đơn số 82 ngày 28/02/2023, số 120 ngày 08/03/2023 để Công ty cổ phần G mua, tổng số tiền 255.480.000 đồng.
8. Bán 04 hóa đơn, gồm các số 55, 56 ngày 24/02/2023, số 116 ngày 06/03/2023, số 125 ngày 13/03/2023 để Công ty cổ phần T8 mua, tổng số tiền 1.606.600.000 đồng.
9. Bán 03 hóa đơn, gồm số 03 ngày 31/01/2023, số 41 ngày 15/02/2023, số 110 ngày 01/03/2023 để Công ty cổ phần V2 mua, tổng số tiền 25.446.000 đồng.
10. Bán 01 hóa đơn số 71 ngày 28/02/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn A mua, số tiền 15.420.000 đồng.
11. Bán 01 hóa đơn số 142 ngày 24/03/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn C mua, số tiền 291.000.000 đồng.
12. Bán 10 hóa đơn, gồm các số 06 ngày 31/01/2023, số 29 ngày 04/02/2023, số 31 ngày 06/02/2023, số 37 ngày 10/02/2023, số 42 ngày 16/02/2023, các số 63, 64 ngày 27/02/2023; số 130 ngày 16/3/2023; các số 138, 139 ngày 23/3/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn C1 mua, tổng số tiền 1.262.800.000 đồng.
13. Bán 01 hóa đơn số 117 ngày 07/03/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn C1 mua, số tiền 1.000.000.000 đồng.
14. Bán 01 hóa đơn số 33 ngày 06/02/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn D mua, số tiền 5.445.000 đồng.
15. Bán 06 hóa đơn, gồm số 35 ngày 07/02/2023, số 39 ngày 11/02/2023, các số 132, 134 ngày 20/3/2023; số 137 ngày 22/3/2023, số 141 ngày 24/03/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ6 mua, tổng số tiền 74.624.164 đồng.
16. Bán 01 hóa đơn số 02 ngày 30/01/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ7 mua, số tiền 368.100.100 đồng.
17. Bán 04 hóa đơn, gồm số 04 ngày 31/01/2023, số 44 ngày 17/02/2023, số 69 ngày 28/02/2023, số 126 ngày 14/3/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn E1 mua, tổng số tiền 4.400.000 đồng.
18. Bán 02 hóa đơn, gồm số 111 ngày 03/03/2023, số 122 ngày 10/3/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn G2 mua, tổng số tiền 396.880.000 đồng.
19. Bán 01 hóa đơn số 128 ngày 16/3/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn G3 xây dựng mua, số tiền 34.000.000 đồng.
20. Bán 02 hóa đơn, gồm số 38 ngày 10/02/2023, số 43 ngày 17/02/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn H3 mua, tổng số tiền 17.180.000 đồng.
21. Bán 01 hóa đơn số 136 ngày 22/3/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn J mua, số tiền 7.939.000 đồng.
22. Bán 02 hóa đơn, gồm số 05 ngày 31/01/2023, số 72 ngày 28/02/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn P mua, tổng số tiền 65.154.900 đồng.
23. Bán 13 hóa đơn, gồm các số 22, 23, 24, 25, 26, 27 ngày 02/02/2023; các số 85, 88, 91, 95, 98, 100, 101 ngày 28/02/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 mua, tổng số tiền 5.620.774.798 đồng.
24. Bán 01 hóa đơn số 48 ngày 17/02/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn S mua, số tiền 172.900.000 đồng.
25. Bán 01 hóa đơn số 34 ngày 06/02/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn T9 mua, số tiền 2.200.000 đồng.
26. Bán 01 hóa đơn số 01 ngày 17/01/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn T10 mua, số tiền 300.000.000 đồng.
27. Bán 01 hóa đơn số 53 ngày 20/02/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn T11 mua, số tiền 394.400.000 đồng.
28. Bán 01 hóa đơn số 131 ngày 17/03/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn T12 mua, số tiền 198.000.000 đồng.
29. Bán 01 hóa đơn số 135 ngày 22/3/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn T13 mua, số tiền 350.000 đồng.
30. Bán 42 hóa đơn, gồm các số 09, 11, 13, 14, 15, 17, 19, 21 ngày 31/01/2023; số 30 ngày 05/02/2023, các số 49, 50, 51 ngày 17/02/2023; số 52 ngày 18/02/2023, số 54 ngày 22/02/2023, các số 65, 66, 67 ngày 27/02/2023; các số 73, 77, 78, 79, 83, 84, 86, 87, 89, 90, 92, 93, 94, 96, 97, 99, 102, 103, 104, 105, 106, 107, 108 ngày 28/02/2023; số 109 ngày 01/3/2023, số 133 ngày 20/3/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn C1 mua, tổng số tiền 14.318.205.677 đồng.
31. Bán 01 hóa đơn số 140 ngày 23/3/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn V3 mua, số tiền 224.924.300 đồng.
32. Bán 01 hóa đơn số 32 ngày 06/02/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn V4 mua, số tiền 1.650.000 đồng.
33. Bán 01 hóa đơn số 40 ngày 15/02/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn X mua, số tiền 1.950.000 đồng.
34. Bán 02 hóa đơn, gồm số 07 ngày 31/01/2023, số 28 ngày 03/02/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn Y mua, tổng số tiền 22.500.000 đồng.
35. Bán 01 hóa đơn số 127 ngày 14/3/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn S1 mua, số tiền 89.951.250 đồng.
36. Bán 01 hóa đơn số 143 ngày 24/03/2023 để Công ty trách nhiệm hữu hạn V5 mua, số tiền 28.000.000 đồng.
37. Bán 02 hóa đơn, gồm các số 123, 124 ngày 10/03/2023 để Hợp tác xã C2 mua, tổng số tiền 1.711.999.940 đồng.
Trong tổng số 128 hóa đơn đã bán ra để các Doanh nghiệp mua, T3 trực tiếp bán 13 hóa đơn, tổng số tiền 329.774.200 đồng (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng), T3 thu lời bất chính 5.276.387 đồng (Trong đó bán: 01 hóa đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn V3 mua, 02 hóa đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn P mua, 02 hóa đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn H3 mua, 01 hóa đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn A mua, 01 hóa đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn D mua, 01 hóa đơn cho Công ty trách nhiệm hữu hạn V4 mua, 04 hóa đơn Công ty cổ phần T8 mua; 01 hóa đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn Thế T4 mua).
Trong tổng số 13 hóa đơn T3 trực tiếp bán ra để các Doanh nghiệp mua, có 05 hóa đơn do N giới thiệu người mua, 03 hóa đơn do chị Đỗ Thị Ánh T5 (là người quen với T3), sinh năm 1986, địa chỉ cư trú: số A C, phường T, quận H, thành phố Hải Phòng giới thiệu người mua. Cụ thể như sau: N giới thiệu để T3 bán được 05 hóa đơn (Trong đó: 01 hóa đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn T10, 04 hóa đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn B). N không được hưởng lợi từ việc giới thiệu để T3 bán hóa đơn, T3 không thu lợi từ việc bán hóa đơn do nể nang việc N giới thiệu để T3, Đ2 mua được Công ty H2. T5 giới thiệu để T3 bán được 03 hóa đơn (Trong đó: 01 hóa đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn V3 mua; 02 hóa đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn P mua); T5 được hưởng lợi 1.450.396 đồng từ việc giới thiệu để T3 bán hóa đơn.
Ngày 18/8/2023, Cơ quan điều tra đã khởi tố T3; ngày 22/01/2024, Cơ quan điều tra đã khởi tố Đ2 về tội "Mua bán trái phép hóa đơn" quy định tại khoản 2 Điều 203 Bộ luật Hình sự.
Vật chứng thu giữ: 142 Hóa đơn giá trị gia tăng chuyển kèm theo hồ sơ vụ án; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A22 màu tím của Phạm Văn T2 giao nộp; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro màu xanh của Trần Thị Quỳnh T tự nguyện giao nộp, chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận Đồ Sơn quản lý.
Tại Cơ quan điều tra, Trần Thị Quỳnh T khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện như đã nêu trên. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các lời khai của những người làm chứng, vật chứng thu giữ và tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
- Về vấn đề khác:
+ Đối với Ngô Văn Đ1 hiện đang bỏ trốn, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định truy nã số 85A/QĐTN-CQĐTHS ngày 01/02/2024, hết thời hạn điều tra Cơ quan điều tra đã tách vụ án số 222/QĐ-CQĐT(HS) ngày 18/4/2024 và tạm đình chỉ điều tra theo quyết định số 223/QĐ-CQĐT(HS) và 224/QĐ-CQĐT(HS) ngày 18/4/2024, khi nào bắt được sẽ tiếp tục xử lý theo quy định của pháp luật.
+ Đối với Đỗ Thị Ánh T5, Nguyễn Thị N, Phạm Văn T2 và các tổ chức, cá nhân có liên quan. Hiện tài liệu, chứng cứ thu thập được chưa đủ căn cứ để khởi tố nên Cơ quan điều tra Quyết định tách vụ án, khi nào bắt được Ngô Văn Đ1 sẽ tiếp tục điều tra làm rõ xử lý trong giai đoạn tiếp theo của vụ án.
Tại Bản Cáo trạng số 20/CT-VKSĐS ngày 17/5/2024, Viện Kiểm sát nhân dân quận Đồ Sơn truy tố Trần Thị Quỳnh T về tội "Mua bán trái phép hóa đơn" theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 203 Bộ luật Hình sự.
Ngày 18/7/2024, bị cáo tự nguyện nộp lại 5.276.387 đồng (Tổng số tiền thu lợi bất chính trong vụ án này) tại Biên lai thu tiền số 0005610 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng T7.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2024/HS-ST ngày 25/7/2024 của Tòa án nhân dân quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng đã căn cứ điểm d khoản 2 Điều 203; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các điều 17, 58, 38 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Trần Thị Quỳnh T phạm tội "Mua bán trái phép hóa đơn"; xử phạt bị cáo Trần Thị Quỳnh T 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành án kể từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí đối với bị cáo và quyền kháng cáo của bị cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo xin được giảm hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt, bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Bà Nguyễn Thị H1 - người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến gì về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo nhưng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là: Bị cáo T tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm và trong quá trình giải quyết vụ án nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Mặt khác, hiện nay, hoàn cảnh của bị cáo vô cùng khó khăn: Bị cáo có con bị mắc bệnh phổ tự kỷ, tăng động giảm chú ý, rối loạn ngôn ngữ và chậm phát triển so với lứa tuổi; bị cáo rất khó khăn, phải thuê nhà trọ để ở, một mình nuôi con nhỏ và chăm sóc mẹ già. Mẹ bị cáo ngày càng già yếu, bệnh tật, không có khả năng lao động nên bị cáo đang là lao động chính trong gia đình. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt ở đầu khung hình phạt, với mức 12 (Mười hai) tháng tù để cho bị cáo sớm được trở về chăm sóc con.
* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo; đã tuyên bố bị cáo Trần Thị Quỳnh T phạm tội "Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước"; xử phạt bị cáo Trần Thị Quỳnh T 18 (Mười tám) tháng tù là phù hợp với pháp luật. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nên không có căn cứ để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Từ phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm. Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05/8/2024, bị cáo Trần Thị Quỳnh T có đơn kháng cáo, Viện Kiểm sát không kháng nghị. Kháng cáo bị cáo Trần Thị Quỳnh T trong thời hạn luật định và hợp lệ nên được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án theo trình tự phúc thẩm.
- Xét kháng cáo của bị cáo xin được giảm hình phạt:
[3] Hội đồng xét xử phúc thẩm xét: Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất vụ án, hành vi phạm tội, cũng như xem xét đầy đủ về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có ông ngoại là người có công với cách mạng; bị cáo đã tự nguyện nộp lại toàn bộ số tiền thu lợi bất chính. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo trong khung hình phạt là không nặng. Xét tại giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự gì mới. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo; cần giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2024/HS-ST ngày 25/7/2024 của Tòa án nhân dân quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
[4] Về đề nghị của người bào chữa cho bị cáo Trần Thị Quỳnh T, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét:
[4.1] Tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự quy định: "Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án". Theo hướng dẫn tại mục 3 Phần I của Văn bản số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân tối cao thì tình tiết "Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án" được hiểu là trường hợp người phạm tội có những hành vi, lời khai thể hiện sự hợp tác tích cực với cơ quan có trách nhiệm trong việc nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án, giúp các cơ quan này phát hiện thêm tội phạm mới hoặc đồng phạm mới.
[4.2] Xét bị cáo T và các đối tượng khác đã nhiều lần thực hiện hành vi "Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước", cụ thể: Từ tháng 3 năm 2021 đến tháng 10 năm 2021, bị cáo Trần Thị Quỳnh T và Đào Xuân T6 đã bán trái phép 288 số hóa đơn giá trị gia tăng ghi khống số tiền hàng hóa, dịch vụ chưa thuế là 406.992.493.441 đồng nên đã bị Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử tại Bản án hình sự sơ thẩm số 97/2023/HS-ST ngày 01/6/2023, bị cáo T đã bị xử phạt 200.000.000 đồng, Đào Xuân T6 đã bị xử phạt 300.000.000 đồng đều về "Tội mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp Ngân sách Nhà nước".
[4.3] Như vậy, tại thời điểm Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H phát hiện hành vi của bị cáo Trần Thị Quỳnh T và Đào Xuân T6 bán trái phép 288 số hóa đơn giá trị gia tăng từ thời điểm tháng 3 năm 2021 đến tháng 10 năm 2021 nhưng bị cáo T không khai báo về hành vi mà trước đó (từ tháng 01/2023 đến tháng 3/2023) T và Đ1 thực hiện bán trái phép 143 số hóa đơn giá trị gia tăng. Chỉ đến khi Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận Đ phát hiện, nhanh chóng vào cuộc điều tra, làm rõ sự việc T và Đ1 bán trái phép 288 số hóa đơn giá trị gia tăng thì T mới khai báo. Do đó, không có cơ sở nào khẳng định bị cáo T đã giúp các cơ quan tố tụng phát hiện thêm tội phạm mới hoặc đồng phạm mới. Đối với việc bị cáo T thành khẩn khai báo thì đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo T về việc áp dụng cho bị cáo T tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.
[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xét.
* Về thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm:
- Tại Quyết định của bản án sơ thẩm đã áp dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo Trần Thị Quỳnh T là không đúng. Bởi lẽ: Trong vụ án này, Viện Kiểm sát nhân dân quận Đồ Sơn chỉ truy tố Trần Thị Quỳnh T, không truy tố đối tượng Ngô Văn Đ1 do Ngô Văn Đ1 hiện đang bỏ trốn. Hiện nay Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Đ đã có Quyết định tách hành vi của Ngô Văn Đ1 để điều tra làm rõ, xử lý sau. Tòa án chỉ được áp dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt trong trường hợp có đồng phạm. Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử hành vi phạm tội và quyết định hình phạt đối với riêng bị cáo Trần Thị Quỳnh T thì Tòa án cấp sơ thẩm không được áp dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm về vấn đề này.
- Tại Quyết định của bản án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Trần Thị Quỳnh T phạm tội "Mua bán trái phép hóa đơn" là ghi chưa đầy đủ tên của điều luật áp dụng, cần phải ghi đầy đủ: Tuyên bố bị cáo Trần Thị Quỳnh T phạm tội "Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước". Tòa án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm về vấn đề này.
- Tại Quyết định của bản án sơ thẩm có nêu: Buộc chị Đỗ Thị Ánh T5 phải nộp lại 1.450.000đ (Một triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước. Xét trong vụ án này, chị Đỗ Thị Ánh T5 đã giới thiệu để bị cáo T bán trái phép 05 hóa đơn và chị T5 được hưởng lợi 1.450.396 đồng. Hiện cơ quan điều tra đã Quyết định tách hành vi của Đỗ Thị Ánh T5 và các đối tượng khác, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau. Theo quy định của pháp luật thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định chị Đỗ Thị Ánh T5 là người làm chứng là không đúng, làm mất quyền kháng cáo của chị T5 đối với phần nghĩa vụ mà chị T5 phải thực hiện. Do đó, cần xác định chị Đỗ Thị Ánh T5 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm về vấn đề này.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2024/HS-ST ngày 25/7/2024 của Tòa án nhân dân quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
2. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 203; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, - Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Thị Quỳnh T phạm tội "Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước".
- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Thị Quỳnh T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.
Tiếp tục duy trì Quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Trần Thị Quỳnh T cho đến khi bị cáo đi thi hành án phạt tù.
3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 138 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2015/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2024/HS-ST ngày 25/7/2024 của Tòa án nhân dân quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước số 161/2024/HS-PT
Số hiệu: | 161/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về