Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 99/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 99/2021/HS-ST NGÀY 16/07/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 90/2021/TLST - HS ngày 11 tháng 06 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2021/QĐXXST - HS ngày 02 tháng 07 năm 2021, đối với bị cáo:

Trương Thành C, sinh năm 1999 tại Hà Nam; Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố N, phường C, thành phố P, tỉnh Hà Nam; chỗ ở: Tổ 6, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn T, sinh năm 1961 và bà Lê Thị D (đã chết); vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 04/03/2021, chuyển tạm giam từ ngày 10/3/2021 đến nay; có mặt.

* Người làm chứng:

1. Chị Phạm Thị Thanh T; vắng mặt.

2. Ông Lê Văn Đ; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 45 phút ngày 03/3/2021, Trương Thành C đang ở khu vực cầu Ch thuộc tổ dân phố Đ, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam thì gặp một người phụ nữ tên Th (không biết nhân thân, lai lịch) nhờ C lấy hộ một chỉ ke và năm viên mang đến đưa cho một người em tại phòng 208, dãy B, khách sạn H thuộc phường L, thành phố P, C hiểu ý Th muốn mua ma túy cho em Th nên đồng ý. C đi taxi về phòng trọ ở tổ 6, phường T rồi gọi điện thoại cho Phạm Văn D nói “Anh ơi em có khách, anh để cho em một chỉ ke và năm viên kẹo”, D đồng ý rồi điều khiển xe ô tô đến phòng trọ của C và chở C đi đến khách sạn H thuộc tổ 6, phường L, thành phố P, D đưa cho C 01 gói giấy và nói “Bên trong có một chỉ ke và năm viên kẹo, em vào đưa khách, lấy bốn triệu, anh cho em năm trăm”. C cầm gói giấy không mở ra kiểm tra mà đi vào dãy B, khách sạn H tìm phòng 208 để giao ma túy cho khách thì bị lực lượng Công an phường L, thành phố P phát hiện, bắt quả tang. Lực lượng Công an đã thu giữ của C 01 gói giấy ăn, bên trong có 01 túi nilon màu trắng chứa chất tinh thể màu trắng và 03 viên nén màu xanh, 02 viên nén màu cam. C khai nhận đó là gói ma túy, C mang đi bán thì bị bắt. Lực lượng Công an đã đưa C cùng vật chứng về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Thu giữ vật chứng, tài sản gồm: 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 03 viên nén màu xanh, 02 viên nén màu cam được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT02; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S mặt trước màu trắng, ốp lưng màu đen, được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT03.

Ngày 04/3/2021, Công an phường L đã chuyển hồ sơ, đối tượng Trương Thành C cùng vật chứng đến cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 04/3/2021, Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trương Thành C tại tổ 6, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Tại bản Kết luận giám định số 45/PC09-MT ngày 08/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam, kết luận: “- Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,739g, loại Ketamine.

- Mẫu viên nén màu cam trong phong bì ký hiệu QT02 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,819g, loại MDMA.

- Mẫu viên nén màu xanh trong phong bì ký hiệu QT02 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,101g, loại MDMA”.

Tại bản cáo trạng số 104/CT-VKS-PL ngày 10/6/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Trương Thành C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày bản luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): Tuyên bố bị cáo Trương Thành C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trương Thành C từ 30 đến 36 tháng tù; về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 251, Điều 35 Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo từ 2 đến 5 triệu đồng nộp vào ngân sách nhà nước; về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy loại Ketamine và MDMA hoàn trả sau giám định, tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Trương Thành C đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã thu thập. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 0 giờ 30 phút ngày 04/3/2021, tại hành lang khu B khách sạn H thuộc tổ 6, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam, Trương Thành C đang cất giữ trái phép 0,739g ma túy loại Ketamine và 1,920g ma túy loại MDMA mục đích để bán kiếm lời thì bị lực lượng Công an phường L, thành phố P phát hiện, bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; ngoài ra bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, mẹ chết sớm, bố thường xuyên đau ốm, bị cáo là lao động chính trong gia đình có xác nhận của UBND phường C nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, gây mất trật trự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát sinh nhiều hành vi vi phạm pháp luật khác. Mặc dù biết rõ hành vi mua bán các chất ma túy bị Nhà nước cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện với mục đích kiếm lời. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Song xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, không có tiền án, tiền sự nên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

- Hình phạt bổ sung: Bị cáo thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhằm mục đích kiếm lời nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, tuy nhiên xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn nên chỉ cần phạt bị cáo ở mức phù hợp, phạt bị cáo 02 triệu đồng nộp ngân sách nhà nước.

[6] Các tình tiết khác:

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ của Trương Thành C: Bị cáo xác định số ma túy nêu trên là do bị cáo mua của Phạm Văn D, trú tại tổ dân phố T, phường C, thành phố P và D đã chở C đi bán ma túy. Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý đã nhiều lần triệu tập Phạm Văn D đến làm việc nhưng D không có mặt tại địa phương. Ngoài lời khai của bị cáo thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh D đã cung cấp ma túy và chở C đi bán ma túy nên không có căn cứ xác định đối tượng có liên quan để xử lý trong vụ án này, cũng không làm rõ được nguồn gốc số ma túy mà bị cáo cất giấu.

Đối với số thuê bao 087785xxxx mà bị cáo C xác định là số điện thoại của D, bị cáo đã liên lạc để mua ma túy. Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý đã ra Lệnh thu giữ điện tín tại Tập đoàn công nghiệp - Viễn thông Quân đội Viettel, kết quả xác định số thuê bao trên được đăng ký chủ thuê bao là anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1986, trú tại thôn P, xã T, thành phố P, tỉnh Hà Nam. Anh Đ là người bán sim điện thoại và đã đứng tên chủ thuê bao 087785xxxx rồi bán cho khách, anh Đ không sử dụng số thuê bao 087785xxxx và không nhớ đã bán số thuê bao trên cho ai nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với người phụ nữ tên Th là người đã nhờ C mua ma túy, nhà ở khu vực phường H, thị xã D, tỉnh Hà Nam. Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý đã xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của người này, ngoài lời khai của C thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[7] Về vật chứng và tài sản đã thu giữ: Đối với số ma túy loại Ketamine và loại MDMA được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01, QT02, số 45/PC09 - MT là vật cấm tàng trữ, lưu hành, do vậy cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S là tài sản hợp pháp của bị cáo C, bị cáo đã sử dụng liên lạc để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước là phù hợp pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo C phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35; Điều 38; Điều 47; Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

Áp dụng các Điều 106; 136; 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Trương Thành C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Trương Thành C 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 04/3/2021.

3. Hình phạt bổ sung: Phạt bổ sung đối với bị cáo Trương Thành C 2.000.000đ (hai triệu đồng) nộp vào ngân sách nhà nước.

4. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy, loại Ketamine và loại MDMA được niêm phong trong 02 phong bì, mặt trước có ghi “Mẫu vật hoàn trả QT01, QT02”, số 45/PC09-MT cùng bao gói được hoàn trả lại sau giám định.

- Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng, số IMEI: 355416078372827 (cũ đã qua sử dụng).

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý hồi 15 giờ 00 phút ngày 14/6/2021).

5. Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Trương Thành C phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 99/2021/HS-ST

Số hiệu:99/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về