Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 25/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 25/2022/HS-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 04 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 21/2022/TLST-HS ngày 01 tháng 03 năm 2022, theo quyết định đưa ra xét xử số 22A/2022/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 03 năm 2022 đối với:

1. Bị cáo Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1996; Nơi ĐKHKTT và trú tại: KDC KH, phường AL, thị xã KM, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; không xác đinh được bố, có mẹ là bà Phạm Thị C, sinh năm 1974; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án, Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 17/12/2021 đến ngày 23/12/2021 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương đến nay (Có mặt tại phiên tòa).

2. Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1974 (Vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Sáng ngày 05/11/2021, với mục đích để sử dụng và bán ma túy “đá”, Nguyễn Ngọc L thuê xe ôm của một người không quen biết đi từ nhà đến khu vực QT, AD, Hải Phòng. Đến nơi, L gặp và hỏi mua của một người đàn ông không rõ họ, tên, địa chỉ được 06 túi ma tuý được đựng trong 06 túi nilon màu trắng (gồm 5 túi nilon nhỏ và 01 túi nilon to) với giá 3.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy L thuê xe ôm đi về nhà. Về đến nhà, L cất 06 túi ma túy vào tủ quần áo trong phòng ngủ của mình. Đến khoảng 9 giờ 45 phút ngày 17/12/2021, L lấy 4 túi ma túy ở trong tủ quần áo để trên mặt bàn trong phòng ngủ, 02 túi ma túy còn lại L cất giấu tại túi quần phía trước bên trái đang mặc rồi đi đến nhà anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1996 ở Khu dân cư KH, phường AL, thị xã KM (là bạn của L, T ở cùng nhà với mẹ là bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1972) để chơi. Khoảng 10 giờ cùng ngày, khi đến nhà T, L gặp một người đàn ông tự khai là Nguyễn Văn D, sinh năm 1993, trú tại HT, HS, KM, Hải Dương. Đồng thời, người đàn ông tên D hỏi mua của L 300.000 đồng ma túy “đá”, L đồng ý rồi lấy trong túi quần ra 02 túi ma túy, đưa cho D 01 túi, túi còn lại L vẫn cầm trên tay phải. L nhận của D số tiền 300.000 đồng cất vào túi quần phía sau bên trái đang mặc. Vừa lúc này thì L và D bị Tổ công tác thuộc Công an thị xã Kinh Môn phối hợp với Công an phường An Lưu kiểm tra, phát hiện. Khi thấy Tổ công tác đến, L đã vất túi ma túy cầm trong lòng bàn tay phải xuống nền nhà ngay cạnh vị trí L đứng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ 01 túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng tại lòng bàn tay trái của Nguyễn Văn D (được niêm phong ký hiệu M1);

01 túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng trên nền nhà ngay vị trí L đứng (được niêm phong ký hiệu M2); thu tại túi quần phía sau bên trái L đang mặc số tiền 300.000 đồng (L khai là tiền L vừa bán ma túy cho D).

Hồi 17 giờ 00 phút cùng ngày, Công an thị xã Kinh Môn tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Ngọc L tại khu dân cư KH, phường AL, thị xã KM, tỉnh Hải Dương, kết quả thu giữ trên mặt bàn trong phòng ngủ của L 04 túi nilon bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng, trong đó có 01 túi nilon có kích thước (3,5x7,5)cm, miệng túi có viền đỏ; 03 túi nilon có kích thước (2x1)cm hai đầu đều được dán kín (được niêm phong ký hiệu N).

Tại Bản kết luận giám định số 22/KLGĐ-PC09 ngày 19/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng trong túi nilon màu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu M1, ghi thu của Nguyễn Văn D, gửi đến giám định khối lượng là 0,025 gam Methamphetamine. Chất rắn (dạng tinh thể) mầu trắng trong túi nilon mầu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu M2, ghi thu trên nền nhà trong phòng do Nguyễn Ngọc L vứt xuống khi thấy lực lượng Công an kiểm tra, gửi đến giám định khối lượng là 0,292 gam ma túy Methamphetaamine. Hoàn lại đối tượng giám định gồm 01 vỏ túi nilon màu trắng và một vỏ phong bì niêm phong mẫu vật ký hiệu M1 gửi đến giám định; 0,253 gam ma túy loại Methamphetamine, 01 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật ký hiệu M2 gửi đến giám định.

Tại Bản kết luận giám định số 29/KLGĐ-PC09 ngày 20/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng trong 04 túi nilon màu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu N, ghi thu trong quá trình khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Ngọc L, gửi đến giám định tổng khối lượng là 2,248 gam ma túy Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng giám định gồm 2,116 gam ma túy loại Methamphetamine, 04 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật ký hiệu N gửi đến giám định.

Tại bản Cáo trạng số 24/CT - VKS ngày 01/3/2022, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện VKSND thị xã Kinh Môn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng: Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đề nghị về hình phạt: từ 04 (bốn) năm 03 (ba) tháng đến 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 17/12/2021. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung. Ngoài ra, còn đề nghị xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không tranh luận gì với bản cáo trạng cũng như bản luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng khoan hồng để được sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an thị xã Kinh Môn; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên Viện kiểm sát thị xã Kinh Môn trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, biên bản khám xét, vật chứng đã thu giữ và lời khai của những người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 17/12/2021, tại chỗ ở của bà Nguyễn Thị T1 thuộc Khu dân cư KH, phường AL, thị xã KM, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Ngọc L có hành vi bán cho một người đàn ông tự khai tên là Nguyễn Văn D 0,025 gam ma túy loại Methamphetamine với số tiền 300.000 đồng bị Tổ công tác thuộc Công an thị xã Kinh Môn phối hợp với Công an phường An Lưu phát hiện, bắt quả tang. Ngoài ra, L còn có hành vi tàng trữ trên người và tại chỗ ở của mình 2,540 gam ma túy loại Methemphetamine, mục đích để bán kiếm lời.

[3] Về tội danh và điều khoản truy tố: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được sự nguy hiểm cũng như tác hại của ma túy tuy nhiên vì mục đích vụ lợi cá nhân, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi bán trái phép 0,025gam Methamphetamin thu lợi 300.000đ, đồng thời tàng trữ 2,540 gam ma túy loại Methemphetamine với mục đích để bán, tổng khối lượng ma túy là 2,565g. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về kiểm soát, quản lý, sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội, đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Do vậy, việc truy tố, xét xử bị cáo theo tội danh, điều luật đã viện dẫn là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Đánh giá tính chất, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Về tính chất hành vi bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào và trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Trên cơ sở nhân thân cũng như mức độ phạm tội, Hội đồng xét xử nên cho bị cáo một mức hình phạt phù hợp để vừa có tác dụng trừng trị cũng như có tác dụng giáo dục chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo là đối tượng không có công việc và thu nhập ổn định nên HĐXX không phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Theo quy định của điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, số ma túy đã thu giữ của bị cáo, được hoàn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành, nên tịch thu cho tiêu hủy cùng vỏ túi ni lon, phong bì chứa mẫu vật giám định, do không còn giá trị sử dụng. Số tiền 300.000đ bị cáo thu được do bán ma túy mà có cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Các đối tượng liên quan trong vụ án: Trong vụ án này, người đã bán ma túy và người lái xe ôm chở bị cáo, quá trình điều tra không xác định được danh tính, địa chỉ. Đối với người đàn ông tự khai tên là Nguyễn Văn D, sinh năm 1993, trú tại HT, HS, KM, Hải Dương, quá trình làm việc, đối tượng đã bỏ trốn. Sau khi xác minh tại Công an phường Hiệp Sơn, xác định không có công dân nào tên Nguyễn Văn D, sinh năm 1993 với thông tin trên. Cơ quan CSĐT- Công an thị xã Kinh Môn tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau. Đối với anh Nguyễn Văn T , sinh năm 1996 và mẹ là bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1972 ở KDC KH, phường AL, thị xã KM, quá trình làm việc xác định không biết cũng như không cho L sử dụng nhà của bà T1 để làm nơi thực hiện hành vi mua bán trái phép ma túy nên không đặt ra giải quyết.

Vì lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Xử:

1/ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

2/ Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc L 04 (bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 17/12/2021;

3/ Về xử lý vật chứng: Tịch thu cho tiêu hủy 01 vỏ túi nilon màu trắng và một vỏ phong bì niêm phong mẫu vật ký hiệu M1 gửi đến giám định; 0,253 gam ma túy loại Methamphetamine, 01 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật ký hiệu M2 gửi đến giám định được niêm phong trong phong bì mặt trước ghi số 22/KLGĐ –PC09 Công an tỉnh Hải Dương; 2,116 gam ma túy loại Methamphetamine, 04 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật ký hiệu N gửi đến giám định được niêm phong trong phong bì mặt trước ghi số 29/KLGĐ –PC09 Công an tỉnh Hải Dương; Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 300.000đ gồm 03 tờ tiền mệnh giá 100.000đ được niêm phong trong phong bì dán kín niêm phong, mặt sau được niêm phong bằng 03 dấu giáp lai của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thị xã Kinh Môn và 04 chữ ký.

(Số lượng, đặc điểm, tình trạng vật chứng theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/3/2022 giữa Công an thị xã Kinh Môn và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Kinh Môn);

4/ Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc L phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm;

5/ Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

289
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 25/2022/HS-ST

Số hiệu:25/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về