TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 177/2024/HS-ST NGÀY 07/08/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN, TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 07 tháng 08 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 163/2024/HSST ngày 22 tháng 07 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 175/2024/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 07 năm 2024 đối với các bị cáo:
1. NGUYỄN CÔNG M, sinh ngày 01/04/1998 tại tỉnh P; Nơi cư trú: Khu Đ, xã N, huyện C, tỉnh P; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công giáo; Con ông: Nguyễn Văn V, con bà: Nguyễn Thị H; Có vợ là Nguyễn Thị Thuỳ C và 01 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ ngày 27/03/2024, huỷ bỏ quyết định tạm giữ ngày 05/04/2024. Bị cáo tại ngoại, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú - Có mặt tại phiên tòa.
2. NGUYỄN VĂN T, sinh ngày 14/11/1986 tại tỉnh H; Nơi cư trú: Khu C, phường C, thành phố C, tỉnh H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn B, con bà: bà Đồng Thị C; Có vợ là Trần Thị N (đã ly hôn) và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 30/09/2016, Toà án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 12 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Đánh bạc” (đã xoá án tích); Bị tạm giữ ngày 28/03/2024, huỷ bỏ quyết định tạm giữ ngày 04/04/2024. Bị cáo tại ngoại, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú - Có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại: Chị Nguyễn Khánh V, sinh năm 1975 - Có mặt Trú tại: Số 36 ngách 43/99 phường T, quận C, thành phố Hà Nội.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Nguyễn Thanh B, sinh năm 1983 - Vắng mặt Trú tại: Phòng 1101 CT1 toà nhà B, số 43 đường L, phường N, quận T, thành phố Hà Nội.
2. Anh Dương Văn D, sinh năm 1985 - Vắng mặt Trú tại: Tổ dân phố 2 thôn Đ, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh V.
3. Anh Nguyễn Hữu H, sinh năm 1993 - Vắng mặt Trú tại: Xã Q, huyện Q, tỉnh N.
4. Chị Nguyễn Thị Thuỳ C, sinh năm 1999 - Vắng mặt Trú tại: Xã H, huyện Đ, thành phố Hà Nội.
5. Ông Phùng Khắc Đ, sinh năm 1949 - Vắng mặt Trú tại: Tổ 7, phường Đ, quận H, thành phố Hà Nội
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 18/02/2024 anh Nguyễn Thanh B (Trú tại: Phòng 1101 CT1 Toà nhà B, số 43 đường L, phường N, quận T, thành phố Hà Nội) đi làm về có để 01 túi đựng bộ gậy golf nhãn hiệu TaylorMade màu xanh và 01 túi đựng bộ gậy golf nhãn hiệu Honma màu xám - xanh ở phía ngoài bàn lễ tân sảnh toà nhà CT1 Toà nhà B và nói với nhân viên bảo vệ toà nhà lúc này là ông Phùng Khắc Đ cho gửi 02 túi đựng gậy golf và sẽ quay lại lấy sau. Hết ca trực, ông Đ bàn giao ca trực cho chị Nguyễn Khánh V. Khoảng gần 09 giờ ngày 19/02/2024, Nguyễn Công M điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Vision, màu đỏ đen (dán màu xám), biển kiểm soát: 19G1 - 309.xx đến sảnh CT1 toà nhà chung cư B, số 43 đường L, nhìn thấy chị Nguyễn Khánh V đang ngồi tại bàn lễ tân sảnh CT1 và nhìn thấy phía ngoài bàn lễ tân có dựng 2 túi gậy golf của anh B nên M đã nảy sinh ý định chiếm đoạt hai túi đựng gậy golf trên. Tuy nhiên, M sợ nếu trực tiếp lấy sẽ bị phát hiện nên M điều khiển xe mô tô ra Bến xe M. Tại đây, M sử dụng tài khoản ứng dụng Be trên điện thoại di động của mình để đặt giao hàng là 02 túi đựng gậy Golf từ sảnh toà nhà CT1 cổng phụ Chung cư B, số 43 đường L đến Bến xe M (cổng quay về phố N). Anh Nguyễn Hữu H (Sinh năm 1993, trú tại xã Q, huyện Q, tỉnh N) là nhân viên giao hàng hãng Be nhận được đơn hàng của Nguyễn Công M từ ứng dụng Be nên gọi điện cho M. M dặn anh H đi đến bàn lễ tân sảnh CT1 gặp bảo vệ bảo lấy 02 túi đựng bộ gậy Golf cho nhà Linh Lương phòng 12.03 và gửi tin nhắn nội dung trao đổi trên từ điện thoại của M vào điện thoại của anh H. Khi anh H đi đến sảnh lễ tân toà nhà Chung cư B, số 43 đường L thì gặp chị Nguyễn Khánh V đang ngồi tại bàn lễ tân sảnh CT1, anh H nói với chị V muốn lấy 02 túi đựng bộ gậy Golf cho nhà Linh Lương phòng 12.03 đồng thời đưa cho chị V xem nội dung tin nhắn giữa anh H và M. Do tin tưởng nên chị Nguyễn Khánh V để anh H đem 02 túi đựng bộ gậy Golf ra xe máy chở đi. Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày 18/02/2024, anh H vận chuyển 02 túi đựng gậy Golf đến Bến xe M (cổng quay ra phố N) giao cho M, M chuyển khoản trả tiền cước 70.000 đồng từ số tài khoản 868010419xx, mở tại ngân hàng T của M đến số tài khoản 1098692067xx, mở tại ngân hàng V cho anh Nguyễn Hữu H. Sau khi nhận được 02 túi đựng gậy Golf trên M đem về phòng trọ tại khu dân cư T, xã H, huyện Đ, thành phố Hà Nội cất giấu. Khoảng 15 giờ cùng ngày, M sử dụng điện thoại di động liên hệ với Nguyễn Văn T là nhân viên cửa hàng mua bán gậy Golf tại sảnh 1 toà nhà B, số 30 đường P, phường M, quận C, thành phố Hà Nội bảo mới lấy được 2 bộ gậy cũ đã qua sử dụng và bán lại. Mặc dù biết là gậy golf của M là phạm tội mà có (do T đã đọc bài viết của anh B đăng trên trên mạng xã hội Facebook với nội dung anh bị mất 2 bộ gậy Golf - có ảnh kèm theo và xin chuộc lại) nhưng T vẫn đồng ý mua và điều khiển xe ô tô đến phòng trọ của M để lấy. Sau khi xem xong 2 bộ gậy Golf T đồng ý mua và bảo khi nào bán được sẽ chuyển trả tiền cho M. Sáng ngày 20/2/2024 T liên hệ với anh Dương Văn D (Sinh năm 1985, trú tại: tổ dân phố 2 thôn Đ, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh V) bán 02 bộ gậy Golf trên với giá 12.000.000 đồng. Sau khi bán được 2 bộ gậy golf cho anh D, T điện thoại bảo với M “mày làm ăn kiểu gì mà người ta đăng lên hội nhóm bị mất trộm đấy và dặn M lần sau có lấy trộm nữa thì cẩn thận không bị lộ”, M bảo T nếu sợ thì đừng mua nữa. T và M thoả thuận trả cho M 2 bộ gậy golf với giá 9.999.999 đồng. Sau đó, T chuyển tiền từ số tài khoản 99699669699xx, mở tại Ngân hàng M, mang tên NGUYEN VAN T đến số tài khoản 27998666xx, mở tại Ngân hàng T, tên NGUYEN CONG M. Sau khi nhận được tiền M đã sử dụng số tiền trên chi tiêu cá nhân hết.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 68 ngày 29/3/2024 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự quận Thanh Xuân kết luận:
+ 01 (một) túi đựng bộ gậy golf nhãn hiệu TaylorMade màu xanh, kích thước 120× 30×30cm, bên trong có: 01 (một) gậy đánh Golf loại rescue 21° nhãn hiệu Ping màu đen, dài khoảng 110cm; tình trạng đã qua sử dụng; 08 (tám) gậy đánh golf bằng sắt, nhãn hiệu TaylorMade M2, dài khoảng 90cm; tình trạng đã qua sử dụng; 01 (một) gậy đánh golf loại putter mang nhãn hiệu TaylorMade màu bạc, dài khoảng 80cm, tình trạng đã qua sử dụng có trị giá 17.000.000 đồng.
+01 (một) túi đựng bộ gậy golf nhãn hiệu Honma màu xám - xanh, kích thước 120×30×30cm, có gắn bánh xe, bên trong túi có 01 (một) gậy đánh Golf loại drive 10,5° màu trắng, dài khoảng 110 cm, tình trạng đã qua sử dụng; 01 (một) gậy đánh golf loại rescue số 5, màu xám, dài khoảng 110cm, tình trạng đã qua sử dụng;
01 (một) gậy đánh golf loại rescue 19° màu xám, dài khoảng 110cm; tình trạng đã qua sử dụng; 01 (một) gậy đánh golf loại putter màu bạc, dài khoảng 80cm, tình trạng đã qua sử dụng, có trị giá 31.500.000 đồng.
Tổng trị giá 2 bộ gậy Golf là 48.500.000 đồng.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Công M và Nguyễn Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Dương Văn D khai: D là người mua 2 bộ gậy Golf của Nguyễn Văn T với giá 12.000.000 đồng. Khi mua D không biết đây là tài sản do T phạm tội mà có mà có. Khi được cơ quan Công an thông báo hai bộ gậy Golf anh mua là tang vật trong vụ án chiếm đoạt tài sản nên D đã tự giác giao nộp để phục vụ công tác điều tra.
Ngày 03/06/2024, Cơ quan điều tra đã trao trả anh Nguyễn Thanh B 02 bộ gậy Golf, anh B đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự.
Ông Phùng Khắc Đ và chị Nguyễn Khánh V không có yêu cầu gì về dân sự đối với các bị cáo Anh Dương Văn D đã được Nguyễn Văn T bồi thường số tiền 12.000.000 đồng, không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự.
Tại bản cáo trạng số 134/CT-VKSTX ngày 23 tháng 06 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân truy tố Nguyễn Công M về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự; truy tố Nguyễn Văn T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà sau khi phân tích vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo kết luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 174 điểm i, s khoản 1 điều 51, điều 65 Bộ luật hình sự đối với bị cáo M; áp dụng khoản 1 Điều 323, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự đối với bị cáo T, xử phạt: Nguyễn Công M từ 27 đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách từ 54 đến 60 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Nguyễn Văn T từ 15 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách từ 30 đến 36 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với cả hai bị cáo; Về dân sự: Người bị hại, người liên quan không có yêu cầu gì về dân sự nên không xét; Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều Điều 47 Bộ luật hình sự, buộc bị cáo M phải truy nộp số tiền thu lợi bất chính là 9.999.999 đồng;Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note11, màu xanh, có số Imei1: 8640280637631xx, số Imei 2: 8640280637631xx thu giữ của Nguyễn Công M; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Pro, màu xám dung lượng 128Gb có số Imei: 353147474030xxx, Meid: 35314747403xx thu giữ của Nguyễn Văn T; Tịch thu tiêu huỷ 02 sim điện thoại số 08663806xx và số 09796236xx.
Tại phiên toà:
- Các bị cáo Nguyễn Công M, Nguyễn Văn T giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận nội dung, tội danh cáo trạng Viện kiểm sát truy tố là đúng.
- Người bị hại - chị Nguyễn Khánh V không có yêu cầu gì về dân sự và về hình phạt đối với các bị cáo.
Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được cải tạo ngoài xã hội để có cơ hội sửa chữa sai lầm
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về tố tụng: Về các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra Công an quậnThanh Xuân, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân thu thập; về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Thanh Xuân, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ và hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thu thập, thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về tội danh: Ngày 19/02/2024, bằng thủ đoạn gian dối, Nguyễn Công M đã làm cho chị Nguyễn Khánh V, bảo vệ Toà nhà CT1 Chung cư B là người đang quản lý hợp pháp tài sản tin tưởng, giao tài sản là 01 túi đựng bộ gậy Golf nhãn hiệu TaylorMade (bên trong có 10 gậy golf) đã qua sử dụng có trị giá 17.000.000 đồng và 01 túi đựng bộ gậy Golf nhãn hiệu Honma (bên trong có 04 gậy golf) đã qua sử dụng có giá trị 31.500.000 đồng, tổng giá trị tài sản là 48.500.000 đồng cho M. Sau khi chiếm đoạt được tài sản, M đem bán cho Nguyễn Văn T; Nguyễn Văn T mặc dù biết rõ 02 túi đựng bộ gậy Golf trên là tài sản do Nguyễn Công M phạm tội mà có nhưng vẫn mua và bán lại cho người khác để hưởng lợi. Đối chiếu với quy định của pháp luật, Nguyễn Công M đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự; Nguyễn Văn T đã phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Viện kiểm sát truy tố các bị cáo ra xét xử theo các tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ pháp lý.
Trong vụ án có anh Dương Văn D là người mua 2 bộ gậy Golf của Nguyễn Văn T. Khi mua anh D không biết đây là tài sản do T phạm tội mà có mà có nên không có căn cứ để xử lý đối với D về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Đối với anh Nguyễn Hữu H là nhân viên giao hàng hãng Be là người vận chuyển 2 bộ gậy Golf cho M đến địa điểm M yêu cầu, do anh H không biết gì về hành vi phạm tội của Nguyễn Công M nên không có căn cứ để xử lý đối với anh H. [3]. Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, làm mất trật tự trị an xã hội, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong nhân dân. Do tính chất nghiêm trọng của vụ án, để đấu tranh phòng chống tội phạm, trong đó có tội xâm phạm sở hữu, góp phần bảo vệ tài sản của công dân, cần thiết phải xử lý các bị cáo bằng pháp luật hình sự.
[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo: Bị cáo M chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo T có 01 tiền án về tội đánh bạc đã được xoá án tích.
Để cải tạo giáo dục các bị cáo và làm bài học răn đe người khác, cần áp dụng hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét tình tiết: Bị cáo M phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Sau khi phạm tội, các bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho chủ tài sản là anh Nguyễn Thanh B, bị cáo T đã bồi thường thiệt hại cho người liên quan là anh Dương Văn D; Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo T có bố đẻ là ông Nguyễn Văn B là người có thành tích trong phong trào thi đua yêu nước, được tặng thưởng nhiều giấy khen; bản thân bị cáo T tích cực tham gia hoạt động thiện nguyện, được chính quyền địa phương ghi nhận để giảm một phần hình phạt cho bị cáo M theo quy định điểm i, b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo T theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Bộ luật hình sự.
Xét thấy, bị cáo M là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo T có 01 tiền án đã được xoá, cả hai bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo M có 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo T có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, 02 tình tiết giảm nhẹ ở khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà có thể cho các bị cáo được cải tạo ngoài xã hội (cho hưởng án treo) cũng đủ tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.
[6]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo là đối tượng không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
[7]. Về dân sự: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - anh Nguyễn Thanh B đã nhận lại tài sản, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - anh B, anh Dương Văn D đã được các bị cáo bồi thường thiệt hại. Do người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì về dân sự nên không xét.
[8]. Về biện pháp tư pháp: Bị cáo M bán tài sản do phạm tội mà có được số tiền 9.999.999 đồng. Xét đây là số tiền thu lợi bất chính nên cần buộc bị cáo truy nộp sung quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự.
[9]. Về vật chứng: Khi bắt giữ các bị cáo, cơ quan Công an thu giữ của bị cáo M 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Vision, màu xám, biển kiểm soát: 19G1 - 309.xx, số khung: 581XGY4014xx; số máy: JF66E03820xx, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note11, màu xanh, có số Imei 1: 8640280637631xx, số Imei 2: 8640280637631xx bên trong có lắp sim số 08663806xx; Thu giữ của Nguyễn Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Pro, màu xám, dung lượng 128Gb có số Imei: 3531474740303xx, Meid: 353147474030xx bên trong có lắp sim số 09796236xx.
Đối với chiếc xe máy thu giữ của Nguyễn Công M, qua xác M là tài sản của chị Nguyễn Thị Thuỳ C (là vợ Nguyễn Công M), có trước thời kỳ hôn nhân. Việc M sử dụng xe làm phương tiện phạm tội chị C không biết. Xét tài sản không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã trao trả cho chị C chiếc xe này, chị C không có yêu cầu gì nên không xét.
Đối với 02 chiếc điện thoại di động thu giữ của bị cáo M và T, xét đây là tài sản các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước, đối với 02 sim điện thoại cần tịch thu tiêu huỷ theo quy định của pháp luật.
[10]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[11]. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Nguyễn Công M phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Nguyễn Văn T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
- Căn cứ khoản 1 Điều 174, điểm i, b, s khoản 1 Điều 51, Điều 47, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo M
- Căn cứ khoản 1 Điều 323, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo T
- Căn cứ Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án
[1]. Xử phạt:
- Nguyễn Công M 30 (ba mươi) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 60 (sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm
- Nguyễn Văn T 15 (mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm Giao bị cáo Nguyễn Công M cho Uỷ ban nhân dân xã N, huyện C, tỉnh P giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Giao bị cáo Nguyễn Văn T cho Uỷ ban nhân dân phường C, thành phố C, tỉnh H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
[2]. Về biện pháp tư pháp: Buộc bị cáo Nguyễn Công M phải truy nộp số tiền 9.999.999 đồng sung quỹ Nhà nước
[3]. Về vật chứng, hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Xuân theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/07/2024 - Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note11, màu xanh có số Imei 1: 8640280637631xx, số Imei 2: 8640280637631xx thu giữ của Nguyễn Công M; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Pro, màu xám, dung lượng 128 Gb có số Imei: 3531474740303xx, Meid: 353147474030xx thu giữ của Nguyễn Văn T;
- Tịch thu tiêu huỷ 02 sim điện thoại số thuê bao 08663806xx và số 09796236xx thu giữ của các bị cáo
[4].Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Công M, Nguyễn Văn T, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[5]. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Người bị hại - chị Nguyễn Khánh V có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - anh Nguyễn Thanh B, chị Nguyễn Thị Thuỳ C, anh Dương Văn D, anh Nguyễn Hữu H, ông Phùng Khắc Đ có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án sơ thẩm.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 177/2024/HS-ST
Số hiệu: | 177/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Thanh Xuân - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/08/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về