Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 68/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ – THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 68/2023/HS-ST NGÀY 28/06/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 28/6/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận T, thành phố Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 55/2023/TLST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:

Lê Quang T Tên gọi khác: Không Giới tính: Nam Sinh ngày: 04 tháng 8 năm 1994, tại tỉnh T Nơi cư trú: X, thành phố H, tỉnh T Quốc tịch: Việt Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Nghề nghiệp: Lao động phổ thông Trình độ học vấn: Lớp 06/12 Con ông: Lê Quang X (Sinh năm: 1968) và bà Nguyễn Thị M (Sinh năm: 1965) hiện đều còn sống Gia đình có 03 chị em, T là con thứ hai Vợ: Đoàn Thị Mỹ L (sinh năm: 1995), có 01 con sinh năm: 2015. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Nguyễn Công T1, Sinh năm 1988, xã H, thị xã H, tỉnh T. Vắng mặt - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1986 Địa chỉ 713-715 V, thành phố Đ. vắng mặt

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Đăng Anh K, Sinh năm: 1994 trú: phường T, quận H, thành phố Đ. vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Quang T và Nguyễn Công T1 (Sinh năm: 1998; HKTT: Xã H, thị xã H, tỉnh T) là bạn cùng làm thợ bánh mỳ và cùng tạm trú tại cơ sở sản xuất bánh mỳ Ngọc Tuấn ở số 31-33 đường H, phường H, quận T, thành phố Đ.

Lúc 19 giờ 30 phút ngày 18 tháng 12 năm 2022, tại cơ sở Ngọc Tuấn, T hỏi mượn của T1 01 xe mô tô hiệu AirBlade màu xám đen biển kiểm soát 75D1-X để đi ăn tối, T1 đồng ý và giao xe cho T sử dụng. Sau khi đi ăn tối xong, T đi đến tiệm cầm đồ gần bến xe Đ cầm cố điện thoại của T lấy 1.000.000đồng. Trên đường đi về trả xe cho T1, T nghĩ không có điện thoại chơi game và không có tiền tiêu xài nên T nảy sinh ý định chiếm đoạt xe của T1. Tuấn biết giờ này T1 đã ngủ nên T điều khiển xe 75D1-X về chỗ làm, lục trong túi quần T1 treo trong phòng lấy giấy đăng ký xe 75D1-X đứng tên T1 và căn cước công dân của T1 rồi điều khiển xe đến tiệm cầm đồ Kim Tuyền địa chỉ 713-715 V, thành phố Đ do anh Nguyễn Ngọc S (Sinh năm 1986, trú cùng địa chỉ) làm chủ gặp anh Nguyễn Đăng Anh K (Sinh năm: 1994; trú: phường T, quận H, thành phố Đ, là em vợ của anh S) đang trông coi tiệm giúp anh S, T đưa giấy tờ xe và căn cước của T1 nói xe mới mua lại chưa kịp chuyển quyền sở hữu phương tiện đồng thời đưa chứng minh nhân dân của T để tạo lòng tin. Hai bên thỏa thuận cầm xe với số tiền 15.000.000đồng. Sau đó, T đi chuộc lại điện thoại của T với giá 1.010.000đồng và thuê nhà nghỉ gần Bến xe Đ để nghỉ ngơi, sử dụng số tiền 14.000.000đồng để nộp vào chơi game online chơi hết. Đến sáng ngày 19/12/2022, T tiếp tục đến tiệm Kim Tuyền để cầm xe 75D1-X lấy thêm 5.000.000 đồng nhưng anh Nguyễn Ngọc S phát hiện chủ xe không phải là T. Anh S yêu cầu T gọi điện nói chuyện với T1 thì T1 không đồng ý cho T cầm cố xe của T1 nên anh S không đồng ý cho T cầm thêm tiền. Do T không chuộc lại xe 75D1-X để trả cho T1 nên đến ngày 20/12/2022, T1 đến Công an phường H trình báo vụ việc.

Quá trình điều tra, Lê Quang T đã khai nhận toàn bộ hành vi chiếm đoạt tài sản như đã nêu trên (Bút lục số: 14-21; 36-49; 54-59).

Vật chứng tạm giữ:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade màu xám đen biển kiểm soát 75D1- X, có số khung 6309FZ506741, số máy JF63E1189574 và giấy đăng ký xe do Nguyễn Công T1 đứng tên chủ sở hữu, anh Nguyễn Ngọc S giao nộp. Ngày 05/01/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận T đã trả lại xe cùng giấy đăng ký xe cho T1. (Bút lục số 28-29) - Hợp đồng mua bán của cửa hàng Song Kim Tuyền nhưng nội dung là cầm cố 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade màu xám đen biển kiểm soát 75D1- X với giá 15.000.000đồng, do anh S giao nộp được lưu vào hồ sơ vụ án (Bút lục số 23) * Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 30 tháng 12 năm 2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng quận T xác định 01 xe mô tô hiệu AirBlade biển kiểm soát 75D1-28892, số khung 6309FZ506741, số máy J6E1189574 có giá trị là 21.200.000 đồng. (Bút lục số 26-27)

Về trách nhiệm dân sự:

- Anh Nguyễn Công T1 đã nhận lại xe mô tô biển kiểm soát 75D1-X, không có yêu cầu bồi thường gì thêm. Đồng thời có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Lê Quang T . (Bút lục số 21) – Anh Nguyễn Ngọc S – chủ tiệm cầm đồ Kim Tuyền yêu cầu Lê Quang T trả lại số tiền 15.000.000 đồng. (Bút lục số: 55) Cáo trạng số 60/CT-VKSTK ngày 08 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận T, thành phố Đ truy tố Lê Quang T về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận T, thành phố Đ thực hành quyền công tố Nhà nước giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất vụ án, nhân thân, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra đề nghị HĐXX:

Áp dụng khoản điểm a khoản 1 Điều 175, các điểm I, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Quang T từ 9 tháng đến 15 tháng tù.

* Về xử lý vật chứng:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade màu xám đen biển kiểm soát 75D1- X, có số khung 6309FZ506741, số máy JF63E1189574 và giấy đăng ký xe do Nguyễn Công T1 đứng tên chủ sở hữu đã trả cho T1.

- Hợp đồng mua bán của cửa hàng Song Kim Tuyền nhưng nội dung là cầm cố 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade màu xám đen biển kiểm soát 75D1- X với giá 15.000.000 đồng, do anh S giao nộp được lưu vào hồ sơ vụ án.

* Về phần dân sự: Buộc Lê Quang T trả lại cho anh Nguyễn Ngọc S số tiền 15.000.000 đồng.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo Lê Quang T thừa nhận toàn bộ hành vi sai phạm xin HĐXX cân nhắc ý thức khi thực hiện hành vi là do bị cáo thiếu hiểu biết quy định pháp luật cho bị cáo hưởng mức thấp nhất để có cơ hội rèn luyện bản thân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của các bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, bị cáo Lê Quang T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Lợi dụng sự quen biết với anh Nguyễn Công T1, bị cáo Lê Quang T đã có hành vi mượn chiếc xe Honda AirBlade màu xám đen biển kiểm soát 75D1-X thuộc sở hữu của anh T1 đi ăn tối sau đó đã đem cầm cố chiếc xe cho Tiệm cầm đồ Kim Tuyền do anh Nguyễn Ngọc S làm chủ để lấy số tiền 15.000.000 đồng đem đi tiêu xài cá nhân cho đến khi anh T1 trình báo cho cơ quan chức năng, bị cáo T không thể chuộc xe để trả lại cho anh Tr1.

Hành vi phạm tội của bị cáo Lê Quang T đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, quy định tại điểm a khoản 1 điều 175 Bộ luật Hình sự với số tiền chiếm đoạt là 21.200.000 đồng. Như vậy bản cáo trạng số 60/CT-VKS ngày 08/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận T, thành phố Đ truy tố các bị cáo là có cơ sở đúng người đúng tội.

[3] Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy: Bị cáo Lê Quang T là người trưởng thành có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an xã hội tại địa phương nên cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và quyết định hình phạt:

Mặc dù bị cáo Lê Quang T chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhân thân tốt, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được bị hại có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt nên bị cáo Lê Quang T được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm I, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Nhưng xét quá trình thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có những thủ đoạn gian dối để làm mọi cách chiếm đoạt tài sản của bạn mình. Bị cáo chưa có trách nhiệm trả lại cho anh Nguyễn Ngọc S số tiền 15.000.000 đồng và hành vi nghiện game của bị cáo là xấu. Ngoài ra tại phiên tòa ngày 01/06/2023 bị cáo không đến phiên tòa theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử thể hiện ý thức của bị cáo rất coi thường pháp luật do đó HĐXX xét thấy cần có một mức án phù hợp với hành vi của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một khoảng thời gian tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo để bị cáo được giáo dục, cải tạo trở thành công dân tốt cho xã hội.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade màu xám đen biển kiểm soát 75D1- X, có số khung 6309FZ506741, số máy JF63E1189574 và giấy đăng ký xe do Nguyễn Công T1 đứng tên chủ sở hữu đã trả cho T1 nên HĐXX không xem xét.

- Hợp đồng mua bán của cửa hàng Song Kim Tuyền nhưng nội dung là cầm cố 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade màu xám đen biển kiểm soát 75D1- X với giá 15.000.000 đồng, đây là vật chứng của vụ án nên HĐXX quy trữ theo hồ sơ vụ án.

[7] Về phần dân sự: Buộc Lê Quang T trả lại cho anh Nguyễn Ngọc S số tiền 15.000.000 đồng. Cho đến khi thanh toán xong nghĩa vụ nếu người được thi hành án có đơn yêu cầu mà người phải thi hành án không thi hành thì phải trả khoản tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 248 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

[8] Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án bị cáo Lê Quang Tuấn phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự theo quy định.

[9] Theo những nhận định như trên Hội đồng xét xử chấp nhận luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Quang T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; các điểm I, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự Điều 584, 585, 468 Bộ luật dân sự.

- Xử phạt: Bị cáo Lê Quang T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 07/6/2023).

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Hợp đồng mua bán của cửa hàng Song Kim Tuyền nhưng nội dung là cầm cố 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade màu xám đen biển kiểm soát 75D1- X đây là vật chứng của vụ án nên HĐXX quy trữ theo hồ sơ vụ án.

3. Về phần dân sự:

Buộc Lê Quang T trả lại cho anh Nguyễn Ngọc S số tiền 15.000.000đồng. Cho đến khi thanh toán xong nghĩa vụ nếu người được thi hành án có đơn yêu cầu mà người phải thi hành án không thi hành thì phải trả khoản tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

4. Về án phí – Bị cáo Lê Quang T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 750.000 đồng.

5. Về thời hạn kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 28.6.2023; Riêng bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 68/2023/HS-ST

Số hiệu:68/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về