TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 145/2024/HS-ST NGÀY 05/04/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 05/4/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 168/2024/TLST-HS ngày 01/3/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1265/2024/QĐXXST-HS, ngày 12/3/2024, đối với các bị cáo:
1.Họ và tên: Phạm Văn T; sinh năm 1992 tại tỉnh B; nơi đăng ký thường trú, nơi cư trú: ấp V, xã T, huyện B, tỉnh B; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá:
08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn N và bà Nguyễn Thị L; vợ tên Nguyễn Thị N1, có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2018;
Tiền án, tiền sự: không; Bắt, tạm giữ: 24/12/2022; Tạm giam: 30/12/2022;
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2.Họ và tên: Dương Trí K; sinh năm 2002 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: 318 lô C, chung cư H, Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú trước khi bị bắt: không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: không;
trình độ văn hoá: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Trí P (chết) và bà Phan Thị Thu H (chết); chưa có vợ, con;
Tiền án, tiền sự: không;
Nhân thân:
Ngày 27/12/2018, bị Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 02 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;
Bắt, tạm giữ: 24/12/2022; Tạm giam: 30/12/2022;
Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn T: Bà Trần Thị Huy C, luật sư của Công ty L2, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt;
Người bào chữa cho bị cáo Dương Trí K: Ông Nguyễn Trung C1, luật sư của Công ty L3, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
Bị hại: Bà Trần Thị Thanh L1; sinh năm 1982; nơi cư trú: C9/11D ấp C, xã T, Huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1.Ông Mai Bá N2, sinh năm 1975; nơi cư trú: Chung cư R, số A B, Phường A, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt (có đơn xin vắng mặt).
2.Ông Ngô Văn S; sinh năm 1963; nơi cư trú: 574/77, đường S, phường B, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
3.Trẻ Ngô Ngọc Minh C2; sinh năm 2017; đại diện hợp pháp: Ông Ngô Văn S và bà Trần Thị Thanh L1, là cha mẹ của trẻ C2; có mặt;
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Phạm Văn T và bà Trần Thị Thanh L1 là những người có quen biết nhau do cùng buôn bán ở chợ H2, tại A đường B, Phường E, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh. T nghi ngờ bà L1 nói xấu mình với chị Nguyễn Thị Thu T1 (người yêu của T) nên dẫn đến việc T và bà T1 thường xảy ra mâu thuẫn, cãi vã với nhau. Vì bực tức, T nảy sinh ý định đốt nhà bà L1 để trả thù. Để thực hiện ý định này, T đã sử dụng ứng dụng Google map để tìm nhà bà L1. Khoảng 17 giờ ngày 23/12/2022, T điện thoại cho Dương Trí K (là bạn bè quen biết nhau ở chợ H2) nhờ K chở T đi làm công việc. K đồng ý và bảo T khi nào đi thì gọi điện thoại báo cho K. Khoảng 20 giờ cùng ngày, T gọi cho K và bảo T đang ở Cầu S đường V, Phường E, Quận E. K điều khiển xe mô-tô mang biển số 59H2-xxxxx đến địa điểm vừa nêu gặp T. Theo sự chỉ dẫn của T, K chở T đến địa chỉ số C đường B, Phường E, Quận E, T xuống xe mua 160.000đ tiền vàng mã. Sau đó, T bảo K chở đến góc chợ H2, T xuống xe đi vào chợ lấy 01 chiếc can nhựa. Theo sự hướng dẫn của T, K tiếp tục chở T đến cây xăng C đường T, Phường H, Quận E. Tại đây, T xuống xe vào cây xăng mua 85.000đ tiền xăng và đựng trong can nhựa đã đề cập, rồi tiếp tục đi đến nhà bà L1 ở địa chỉ số C, Ấp C, xã T, huyện B. Trên đường đi thì T nói cho K biết là đến nhà bà L1 đốt cảnh cáo thôi thì K đồng ý. Khi đến nhà bà L1, T thấy cửa trước nhà đang đóng, T dùng ổ khóa mang theo sẵn khóa cửa nhà từ bên ngoài. Sau đó, T rải tiền vàng mã bên ngoài cửa nhà bà L1, tưới xăng lên. Lúc này K lấy can xăng trên tay T, tiếp tục tưới lên tiền vàng mã và dùng hộp quẹt mồi lửa vào miệng can xăng, rồi ném cả hộp quẹt và can xăng vào chỗ tiền vàng mã đã rải. Khi lửa bùng cháy, K điều khiển xe mô-tô chở T chạy đi. Trên đường về, T đưa cho K gói thuốc lá. Khi về nhà, K mở ra xem thì thấy có 500.000đ trong gói thuốc lá. K gọi điện cho T hỏi là tiền gì thì T nói tiền đưa cho K để đổ xăng.
Trong lúc K và T đốt nhà bà L1 thì trong nhà có bà L1, chồng bà L1 là ông Ngô Văn S và con gái bà L1 là Ngô Ngọc Minh C2 (sinh năm 2017) đang sinh hoạt tại lầu 1 của căn nhà. Phát hiện có khói bốc lên, ông S xuống tầng trệt kiểm tra thấy khói tràn vào nhà. Ông S mở cửa chính để thoát ra ngoài thì phát hiện cửa bị khóa bên ngoài nên ông S gọi bà L1 cùng trẻ C2 thoát ra khỏi căn nhà qua lối cửa sau ra ban công ở lầu 1. Sau đó, ông S đến Công an xã T, huyện B để trình báo sự việc.
Qua tiến hành điều tra, xác minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã triệu tập T và K để làm việc. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B và Công an Thành phố Hồ Chí Minh, T và K đã khai nhận đã thực hiện hành vi như đã nêu. Tuy nhiên, T và K khai rằng mục đích đốt nhà chỉ để hù dọa bà L1.
Về các biện pháp tư pháp:
Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ một số vật chứng và đồ vật có liên quan như sau:
-01 mảnh nhựa đã biến dạng do bị cháy; 01 nắp nhựa màu đỏ hình tròn đã biến dạng do bị cháy; 01 ổ khóa bằng kim loại một bên trên thân ổ khóa có chữ “Việt Tiệp”; một số mảnh giấy tiền vàng đã bị cháy không nguyên vẹn (thu giữ tại hiện trường gây án);
-01 xe mô-tô biển kiểm soát 59H2-061.43, số máy KF41E2070000, số khung MH1KF4122LK064784 (xe của K sử dụng làm phương tiện phạm tội);
-01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen, số IMEI 1: 1860821057560557, số IMEI 2: 860821057560540 đã qua sử dụng (điện thoại của K dùng để liên hệ với T);
-01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG màu đen, số IMEI 1: 359991095132061101, số IMEI 2: 359992095132069101 đã qua sử dụng (điện thoại của T dùng để liên hệ với K);
-01 áo thun ngắn tay màu xám phía trước áo có chữ “AERO POSTALE” và 01 quần short Jeans màu xanh (quần áo của K mặc khi gây án);
-01 áo Jean dài tay màu xanh, trên nắp túi áo bên trái có ghi chữ “NEWJEANS” và 01 quần Jean màu đen ống quần bị rách hai bên (quần áo của T mặc khi gây án).
-01 USB bên trong có chứa dữ liệu ghi nhận hình ảnh vụ việc (kèm theo hồ sơ vụ án) được trích xuất từ camera của nhà bên cạnh nhà bà L1.
Kết quả điều tra xác định được xe mô-tô mang biển số 59H2-061.43, số máy KF41E2070000, số khung MH1KF4122LK064784 thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bà Phạm Thị Thu H1 (bà ngoại của bị cáo K). Bà H1 không có lỗi trong việc để cho các bị cáo sử dụng xe làm phương tiện phạm tội. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã trả lại chiếc xe cho bà H1.
Ông Mai Bá N2 (là chủ sở hữu căn nhà mà bà L1 và ông S thuê) cho biết căn nhà của ông bị thiệt hại không đáng nên ông không có yêu cầu gì (bl.172).
Bị hại, đại diện bị hại cho biết: Không yêu cầu các bị cáo bồi thường.
Cáo trạng số 70/CT-VKS-P2 ngày 24/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo về tội “Giết người” theo điểm l khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
Các bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi như đã nêu trên.
Bị cáo T khai rằng bị cáo không có ý định giết bà L1 mà chỉ hăm dọa.
Ông S và bà L1 cho biết: Sau khi sự việc xảy ra, bà ngoại của bị cáo K đã bồi thường cho ông S và bà L1 10.000.000đ. Ông S, bà L1 không có yêu cầu gì đối với các bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh luận tội như sau: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận đã thực hiện những hành vi như bản Cáo trạng đã nêu; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong vụ án. Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó, bị cáo T có vai trò là chủ mưu, rủ bị cáo K tham gia phạm tội. Tội phạm đã hoàn thành, hậu quả chết người chưa xảy ra là ngoài ý muốn của các bị cáo. Do đó, Viện kiểm sát truy tố các bị cáo về tội “Giết người” theo điểm l khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự là có căn cứ. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “phạm tội chưa đạt”. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 15 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo T từ 12 năm đến 14 năm tù; xử phạt bị cáo K từ 10 năm đến 12 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc bà Trần Thị Thanh L1, ông Ngô Văn S và ông Mai Bá N2 không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy các đồ vật có liên quan đến hành vi phạm tội không có giá trị sử dụng; tịch thu, nộp vào ngân sách Nhà nước các điện thoại thu giữ của các bị cáo; tiếp tục lưu hồ sơ vụ án 01 USB bên trong có chứa dữ liệu ghi nhận hình ảnh vụ việc.
Bị cáo T bào chữa như sau: Vì nóng giận nhất thời nên bị cáo mới đốt nhà bị hại. Nhưng mục đích chỉ để hù dọa chứ không có ý định giết người nên bị cáo chỉ tưới xăng ở phía ngoài, cách cửa sắt nhà bà L1 khoảng 01m.
Luật sư Trần Thị Huy C bào chữa cho bị cáo T như sau: Luật sư thống nhất với Viện kiểm sát về tội danh truy tố nhưng mức án mà Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Bởi lẽ, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có nhận thức pháp luật hạn chế, lúc đầu bị cáo nghĩ rằng đốt nhà chỉ để hù dọa mà không nhận thức được hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Luật sư Nguyễn Trung C1 bào chữa cho bị cáo K như sau: Về tội danh, luật sư không có ý kiến nhưng mức án mà Viện kiểm sát đề nghị đối với K là quá nghiêm khắc. Bởi lẽ, theo lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thì lúc đầu T rủ K chở T đi công việc; khi gần đến nhà bà L1 thì T mới nói đốt nhà bị hại để cảnh cáo; các công cụ phạm tội đều do bị cáo T mang theo; vai trò của K là thấp hơn so với T vì K là người bị rủ rê lôi kéo; sức khỏe, tính mạng của bị hại vẫn chưa bị ảnh hưởng; bị cáo K có hạn chế về mặt nhận thức pháp luật; bà ngoại của bị cáo đã bồi thường cho bị hại 10.000.000đ. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15 và khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất mà Viện kiểm sát đề nghị.
Bị cáo K đồng ý với ý kiến bào chữa của luật sư C1; bị cáo không có ý kiến bào chữa bổ sung.
Bà Trần Thị Thanh L1 và ông Ngô Văn S trình bày như sau: Hậu quả chết người không xảy ra là ngoài ý muốn của các bị cáo. Trong quá trình điều tra, vợ chồng ông nhận thấy hoàn cảnh gia đình của bị cáo K rất khó khăn, bị cáo không còn cha mẹ, phải sống với bà ngoại; bị cáo thật sự ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo K được hưởng mức án dưới mức thấp nhất mà Viện kiểm sát đề nghị để bị cáo sớm được trở về với gia đình.
Đại diện Viện kiểm sát không tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ mà các luật sư nêu ra.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1].Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, các luật sư bào chữa đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi của người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2].Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, kết quả giám định, lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, có căn cứ để xác định:
Chỉ vì nghi ngờ bà Trần Thị Thanh L1 nói xấu mình, bị cáo T đã rủ bị cáo K đốt nhà bà L1 để trả thù và được K đồng ý.
Khoảng 20 giờ ngày 23/12/2022, K điều khiển xe mô-tô mang biển số 59H2- xxxxx chở T đến nhà bà L1 tại địa chỉ số C, Ấp C, xã T, huyện B. Khi đi các bị cáo đã chuẩn bị và mang theo 01 ổ khóa bằng kim loại, 01 hộp quẹt ga, tiền vàng mã và 01 can nhựa đựng khoảng 4 lít xăng. Khi đến nơi, các bị cáo đã dùng ổ khóa, khóa cửa nhà bà Liên từ phía ngoài, rải tiền vàng mã ở trước cửa nhà, tưới xăng lên và bật lửa đốt. Vào thời điểm đã nêu, trong nhà bà L1 có bà L1, chồng bà L1 là ông S và con bà L1 là trẻ C2 (sinh năm 2017) đang ở lầu 1. Khi lửa bùng cháy, T và K điều khiển xe đi khỏi hiện trường; khoảng 20 giây sau khi lửa bùng cháy, quần chúng nhân dân ở gần nhà bà L1 đã đến dập lửa, khoảng 1 phút sau thì đám cháy bị dập tắt nên không có thiệt hại về người, thiệt hại về tài sản không đáng kể. Khi phát hiện bị cháy, ông S, bà L1 và trẻ C2 cũng kịp thời thoát ra khỏi căn nhà qua lối cửa sau ra ban công lầu 1.
[3].Mặc dù trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo cho rằng các bị cáo đốt nhà bà L1 chỉ nhằm mục đích hù dọa; qua tiến hành xem xét lại hình ảnh do camera an ninh ghi lại được thì các bị cáo cũng chỉ rải tiền vàng mã và đổ xăng ở gần sát cửa sắt nhà bà L1, chủ yếu đổ ở phần vỉa hè. Tuy nhiên, với việc sử dụng gần 04 lít xăng là chất cháy nguy hiểm để đốt như các bị cáo đã thực hiện là hết sức nguy hiểm. Ngay sau khi lửa bùng cháy (khoảng 20 giây) thì nhân dân gần nơi bà L1 ở đã phát hiện và đến dập lửa, nếu không phát hiện và cứu chữa kịp thời thì hậu quả gây ra là khôn lường. Các bị cáo cũng thừa nhận hành vi của mình là nguy hiểm có thể gây thiệt hại đến sức khỏe, tính mạng và tài sản của người khác nhưng vẫn thực hiện và có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Đây là trường hợp thực hiện tội phạm với lỗi cố ý gián tiếp. Do vậy, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo về tội “Giết người” là có căn cứ.
[4].Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trái phép đến tính mạng, sức khỏe người khác được luật pháp luật bảo vệ; gây bất ổn đời sống xã hội; gây hoang mang, lo sợ cho mọi người. Các bị cáo đều là những người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là sai trái, bị luật pháp nghiêm cấm nhưng vì thiếu ý thức tôn trọng pháp luật, xem thường tính mạng, sức khỏe người khác nên vẫn cố ý vi phạm.
[5].Trong vụ án này, các bị cáo đã dùng xăng để đốt nhà bà L1 nên Viện kiểm sát nhân dân xác định các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người” là có căn cứ. Khi các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, trong nhà bà L1 còn có chồng bà L1 và con bà L1. Tuy nhiên, qua thẩm vấn tại phiên tòa, các bị cáo khai không biết trong nhà bà L1 có những ai; không có căn cứ để xác định các bị cáo biết được trong nhà bà L1 có chồng bà L1 và con bà L1; hành vi của các bị cáo cũng chưa thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của bà L1, chồng và con của bà L1. Do vậy, không có căn cứ để quy buộc các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “giết 02 người trở lên”, “giết người dưới 16 tuổi”. Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không truy tố các bị cáo theo điểm a và b khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là đúng pháp luật. Tuy nhiên, trong vụ án này, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt mà các bị cáo đã có hành vi phạm tội. Do vậy, cần áp dụng thêm tình tiết “phạm tội có tính chất côn đồ” đối với các bị cáo.
[6].Căn cứ các nhận định đã nêu, đối chiếu với quy định của pháp luật, có đủ cơ sở để kết luận các bị cáo đã phạm tội “Giết người” theo điểm n và l khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[7].Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt cần áp dụng đối với các bị cáo:
Mặc dù hậu quả chết người chưa xảy ra, thiệt hại về tài sản là không đáng kể nhưng hành vi của các bị cáo là hết sức nguy hiểm. Trong trường hợp không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời thì hậu quả xảy ra là khôn lường.
Đây là vụ án có đồng phạm mang tính giản đơn. T là người khởi xướng, chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội và cũng là người thực hành, là người rủ rê, lôi kéo K vào việc phạm tội. Còn K là người giúp sức và cũng là người thực hành. Hành vi của T có tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội là cao hơn nhiều so với K.
Bị cáo K là người có nhân thân không tốt, ngày 27/12/2018 bị Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 02 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (khi phạm tội bị cáo là người chưa đủ 18 tuổi; án tích đã được xóa). Đây không phải là tình tiết tăng nặng khi lượng hình nhưng cũng cần được lưu ý.
Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo T có 02 con nhỏ; bị cáo K mồ côi cha mẹ, từ nhỏ phải sống với bà ngoại, thiếu sự chăm sóc giáo dục của gia đình. Do vậy, cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Riêng đối với bị cáo K, trong quá trình điều tra, bà ngoại bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bà L1 10.000.000đ; được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Do vậy, cần áp dụng thêm điểm b khoản 1 Điều 51 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt nên khi lượng hình, cần áp dụng khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự để xem xét.
Căn cứ tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; đặc điểm nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng, cần áp dụng hình phạt tù tương xứng đối với từng bị cáo.
Bị cáo K có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội do bị rủ rê, lôi kéo, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội là thấp hơn nhiều so với T. Do vậy, cần áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, cho bị cáo được hưởng mức án dưới mức thấp nhất trong khung hình phạt;
[8].Về các biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, vật thu giữ.
Căn cứ Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 585 Bộ luật dân sự 2015, giải quyết như sau Tại phiên tòa, bà L1 và ông S xác nhận bà ngoại của bị cáo K đã bồi thường cho ông S và bà L1 10.000.000đ; ông S và bà L1 không có yêu cầu gì thêm. Đây là ý chí tự nguyện của ông S và bà L1, cần ghi nhận.
Ông Mai Bá N2 vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên, theo tài liệu có trong hồ sơ thể hiện ông N2 cho biết thiệt hại gây ra cho ông N2 không đáng kể, ông N2 không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường. Đây là ý chí tự nguyện của ông N2, cần ghi nhận.
Đối với 02 chiếc điện thoại thu giữ của T và K: Các bị cáo đã sử dụng liên lạc với nhau để thực hiện tội phạm. Đây là phương tiện phạm tội, cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
Đối với 01 USB bên trong có chứa dữ liệu ghi nhận hình ảnh vụ việc (kèm theo hồ sơ vụ án): Là chứng cứ thu thập, cần tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
Đối với những vật còn lại: Là vật các bị cáo sử dụng làm công cụ phạm tội, vật có ý nghĩa chứng minh tội phạm, trang phục của các bị cáo mặc khi gây án nhưng không còn sử dụng được, các bị cáo cũng không yêu cầu lấy lại. Do vậy, cần tịch thu tiêu hủy.
[9].Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Căn cứ vào điểm n và l khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017, Xử phạt Phạm Văn T 12 (mười hai) năm tù về tội “Giết người”; Thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2022.
2.Căn cứ vào điểm n và l khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017, Xử phạt Dương Trí K 09 (chín) năm tù về tội “Giết người”; Thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2022.
3.Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 585 Bộ luật dân sự năm 2015, Ghi nhận tại phiên tòa việc bà Trần Thị Thanh L1 và ông Ngô Văn S không có yêu cầu gì đối với các bị cáo.
Ghi nhận tại theo hồ sơ vụ án việc ông Mai Bá N2 không có yêu cầu gì đối với các bị cáo.
Tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án 01 USB bên trong có chứa dữ liệu ghi nhận hình ảnh vụ án.
Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước:
-01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen, số IMEI 1: 1860821057560557, số IMEI 2: 860821057560540; đã qua sử dụng. Đây là điện thoại di động của K dùng để liên hệ với T (không kiểm tra đời máy, Imei do không có nguồn điện, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong). (mã số DT1/232BB/2024) -01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen, số IMEI 1: 359991095132061101, số IMEI 2: 359992095132069101 đã qua sử dụng. Đây là điện thoại di động của T dùng để liên hệ với K (...206/9, không kiểm tra đời máy, Imei do không có nguồn điện, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong). (mã số DT2/232BB/2024) Tịch thu tiêu hủy:
-01 mảnh nhựa đã biến dạng do bị cháy; 01 nắp nhựa màu đỏ hình tròn đã biến dạng do bị cháy; 01 ổ khóa bằng kim loại một bên trên thân ổ khóa có chữ “Việt Tiệp”; một số mảnh giấy tiền vàng đã bị cháy không nguyên vẹn. (mã số MANH/232BB/2024) -01 bộ quần áo của Dương Trí K mặc khi gây án: 01 áo thun ngắn tay màu xám phía trước áo có chữ “AERO POSTALE” và 01 quần short Jeans màu xanh. (mã số QA1/232BB/2024) -01 bộ quần áo của Phạm Văn T mặc khi gây án: 01 áo Jean dài tay màu xanh, trên nắp túi áo bên trái có ghi chữ “NEWJEANS” và 01 quần Jean màu đen ống quần bị rách hai bên. (mã số QA2/232BB/2024) Các vật chứng đã nêu hiện đang được lưu giữ tại Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh theo biên bản giao nhận tang tài vật số NK2024/232 ngày 21/3/2024 giữa Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh và PC01 – Công an Thành phố Hồ Chí Minh.
4.Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5.Các bị cáo và các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội giết người số 145/2024/HS-ST
Số hiệu: | 145/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về