TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 185/2024/HS-PT NGÀY 21/06/2024 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Trong ngày 21 tháng 6 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 135/2024/HSPT ngày 09 tháng 5 năm 2024 đối với bị cáo Lê Bé T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 44/2024/HS-ST ngày 07/3/2024 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh - Bị cáo kháng cáo:
Lê Bé T; giới tính: nam; sinh năm 1985 tại tỉnh Cà Mau; nơi đăng ký thường trú: Ấp 7, xã N, huyện U, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Lê Minh T1 và bà Nguyễn Thị T2; hoàn cảnh gia đình: bị cáo có vợ và có 01 người con (sinh năm 2010); Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/5/2023, đến ngày 24/5/2023 thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng đầu tháng 4 năm 2023, Lê Bé T bán vé số tại nhà thuê địa chỉ 165 G, phường B, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh thì có người phụ nữ tên T5 (không rõ họ tên, lai lịch) đến gặp và đề nghị với T về việc bán số đề cho con bạc vãng lai bằng tờ phơi giấy, rồi giao lại cho T5 thì T đồng ý vì muốn kiếm thêm thu nhập. Khi bán số đề cho khách, Bé T sẽ dùng giấy scan viết các con số đề bán cho con bạc, tính tổng tiền cần trả, khoanh T lại và giao cho con bạc.
Cách thức ghi trên các tờ phơi đề: MB tức là Miền Bắc, B tức là bao lô, Đá tức là cách đánh số đá, ĐĐ tức là cách đánh đầu, đuôi, Xc tức là Xỉu chủ. T lưu lại các số đã bán trên tờ giấy scan màu hồng bên dưới. Hàng ngày, vào khoảng 19 giờ thì sẽ có người (không rõ lai lịch) đến gặp T thu lại các tờ phơi bằng giấy scan nêu trên và tiền mặt đã bán số đề cho con bạc trong ngày, sau đó trích lại tiền hoa hồng cho T hưởng theo ngày theo tỉ lệ 3% trên tổng số tiền đã bán số đề được, ví dụ nếu bán được 1.000.000 đồng tiền số đề thì T được nhận hoa hồng là 30.000 đồng. Từ tiền trúng đề mà thầu trên trả xuống, T hưởng chênh lệch bằng cách trả cho con bạc mức tiền thấp hơn, tùy theo hình thức đặt cược và tỉ lệ trúng tương ứng. Cụ thể nếu cá cược 02 con số thì thầu trên trả cho T tỉ lệ trúng 1 ăn 75, T trả tiền thắng cho con bạc tỉ lệ 1 ăn 74. Cá cược 03 con số (bao lô hoặc xỉu chủ) thì tỉ lệ trúng 1 ăn 650, trả tiền thắng cho con bạc tỉ lệ 1 ăn 640; Cá cược 04 con số thì tỉ lệ trúng 1 ăn 5500, trả tiền thắng cho con bạc tỉ lệ 1 ăn 5300; Cá cược số đá thì tỉ lệ trúng 1 ăn 550, trả tiền thắng cho con bạc tỉ lệ 1 ăn 540; cá cược đầu, đuôi thì tỉ lệ trúng 1 ăn 75, trả tiền thắng cho con bạc tỉ lệ 1 ăn 74.
Vào khoảng 18 giờ ngày 15/5/2023, tại địa chỉ 165 G, phường B, quận P, Lê Bé T bán cho C số đề 37 hình thức bao lô đài Hà Nội với số tiền 1.000 đồng, xỉu chủ số 637 đài Hà Nội số tiền 6.000 đồng. Tổng số tiền cược là 587.000 đồng, sau khi trừ tiền hoa hồng 20% thì C trả 469.600 đồng. Khi T vừa nhận số tiền trên và đang đưa phơi đề cho C thì bị công an bắt, thu giữ số tiền 3.200.000 đồng Quá trình điều tra xác định tất cả số đề bán cho con bạc trong ngày 15/5/2023 Lê Bé T lưu trên tập giấy scan mà Công an đã thu giữ. Cụ thể trong ngày 15/5/2023, T đã ghi số đề đài miền Bắc (đài xổ số kiến thiết Hà Nội) cho tổng cộng 11 con bạc vãng lai với tổng số tiền cá cược là 5.686.500 đồng và sau khi trừ tiền hoa hồng 20% khách đưa cho T 4.549.200 đồng, nhưng có 03 khách thiếu khoảng 1.350.000 đồng nên khi bị bắt quả tang chỉ thu giữ 3.200.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 44/2024/HSST ngày 07/3/2024 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Lê Bé T: 01 (một) năm tù về tội “Đánh bạc”, được trừ 10 (mười) ngày tạm giữ, tạm giam trước từ ngày 15/05/2023 đến ngày 24/05/2023, còn lại bị cáo phải chấp hành 11 (mười một) tháng, 20 (hai mươi) ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
Đồng thời còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 07/3/2024 Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 15/3/2024 bị cáo Lê Bé T có đơn kháng cáo xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo Lê Bé T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án sơ thẩm đã thể hiện, đồng thời bị cáo xin được hưởng án treo.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác định Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Bé T về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Xét kháng cáo của bị cáo: bị cáo Lê Bé T có 02 tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo ăn năn hối cải. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo cung cấp tài liệu thể hiện ông nội của bị cáo là Liệt sĩ, bị cáo là lao động chính trong gia đình, cha bị cáo bị bệnh tai biến nặng nhiều năm nay, bị cáo còn nhỏ sinh ngày 24/6/2022 (có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã N, huyện U, tỉnh Cà Mau). Ngoài ra, bị cáo tự nguyện nộp số tiền thu lợi bất chính nên cần cho bị cáo được hưởng thêm các tình tiết này là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng nên đủ điều kiện cho bị cáo được hưởng án treo theo Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 và Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên mức hình phạt 01 năm tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách là 02 năm cũng đủ tác dụng giáo dục, phòng ngừa.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên tịch thu tiêu hủy phơi đề là chưa đúng quy định vì đây là tài liệu liên quan đến vụ án, cần lưu giữ trong hồ sơ, và đối với 01 máy tính Casio cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
Bị cáo Lê Bé T không bào chữa, tranh luận mà chỉ xin cho bị cáo được hưởng án treo để có điều kiện chăm sóc cha bị bệnh và nuôi con nhỏ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Khoảng đầu tháng 4 năm 2023, Lê Bé T đang bán vé số tại nhà thuê địa chỉ 165 G, phường B, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh thì có người phụ nữ tên T5 (không rõ họ tên, lai lịch) đến gặp và đề nghị với T về việc bán số đề cho con bạc vãng lai bằng tờ phơi giấy, rồi giao lại cho T5, vì muốn kiếm thêm thu nhập nên T đồng ý.
[2] Vào khoảng 18 giờ ngày 15/5/2023, tại địa chỉ 165 G, Lê Bé T đang ghi số đề cho C với tổng số tiền cược là 587.000 đồng thì bị công an bắt, thu giữ số tiền 3.200.000 đồng. Quá trình điều tra xác định trong ngày 15/5/2023, T đã ghi số đề cho tổng cộng 11 con bạc vãng lai, với tổng số tiền cá cược là 5.686.500 đồng.
[3] Với hành vi nêu trên, Tòa án nhân dân quận Bình Tân đã kết luận bị cáo Lê Bé T phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Sau khi Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 15/3/2024 bị cáo Lê Bé T có đơn kháng cáo xin hưởng án treo. Xét thấy, đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định nên hợp lệ để xét xử theo trình tự phúc thẩm.
[5] Xét kháng cáo:
Hành vi đánh bạc của bị cáo Lê Bé T đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội nên cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo. Nhưng khi lượng hình, Hội đồng xét xử còn xem xét đến tính chất của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hoàn cảnh và nhân thân của bị cáo.
[5.1] Trong vụ án này, mặc dù không bắt được đối tượng tên Thủy nhưng qua điều tra đã xác định bị cáo Lê Bé T là người bán vé số và kết hợp bán số đề cho khách vãng lai để hưởng tiền công từ đối tượng tên Thủy. Do đó Hội đồng xét xử lưu ý tính chất này khi lượng hình đối với bị cáo.
[5.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên Tòa án cấp sơ thẩm đã cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[5.3] Tại giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo xuất trình tài liệu về hoàn cảnh bị cáo khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, cha bị cáo bị bệnh tai biến nặng nhiều năm nay, bị cáo còn nhỏ sinh ngày 24/6/2022 (có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã N, huyện U, tỉnh Cà Mau); gia đình bị cáo thuộc trường hợp có công với Cách Mạng, ông nội của bị cáo là Liệt sĩ L (có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã N, huyện U, tỉnh Cà Mau) và bị cáo có trình độ học vấn thấp (9/12). Do đó trong trường hợp này cần cho bị cáo hưởng thêm các tình tiết này là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[5.4] Trong quá trình điều tra, bị can Lê Bé T bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú tại địa chỉ 165 G, phường B, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó bị can lại về sinh sống tại nơi đăng ký hộ khẩu thường trú mà không thông báo cho cơ quan tiến hành tố tụng, do vậy Tòa án nhân dân quận Bình Tân đã yêu cầu Công an quận Bình Tân tiến hành xác minh, truy nã đối với bị can theo quy định. Sau khi Công an quận Bình Tân tiến hành xác minh thì bị can Lê Bé T đang cư trú tại nơi đăng ký hộ khẩu thường trú là ấp 7, xã N, huyện U, tỉnh Cà Mau, nên Công an quận Bình Tân đã có công văn số 10263/CV-ĐCSHS ngày 22/12/2023 về việc chưa đủ căn cứ truy nã bị can. Nhưng trước đó vào ngày 20/11/2023, Tòa án nhân dân quận Bình Tân cũng đã ban hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị can Lê Bé T tại địa chỉ: ấp 7, xã N, huyện U, tỉnh Cà Mau. Sau đó, đến ngày 20/02/2024, Tòa án nhân dân quận Bình Tân mới ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm đối với bị cáo T. Như vậy, Lê Bé T đã về cư trú tại nơi đăng ký thường trú và trình diện Tòa án trước khi Tòa án ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Căn cứ theo khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) thì Lê Bé T không thuộc trường hợp không cho hưởng án treo.
[5.4] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Lê Bé T thừa nhận có thu lợi bất chính, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã không xử lý và cũng không có kháng cáo, không có kháng nghị về việc này. Tuy vậy, ngày 20/6/2024, bị cáo Lê Bé T đã có đơn xin tự nguyện nộp lại số tiền thu lợi bất chính tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh để sung vào ngân sách Nhà nước nên Tòa án cấp phúc thẩm ghi nhận sự tự nguyện này của bị cáo. Điều này ngoài việc thể hiện sự ăn năn hối cải của bị cáo T, Hội đồng xét xử cũng cần xem xét cho bị cáo hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[5.5] Xét thấy, với hành vi phạm tội, tính chất của hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ theo điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; số tiền đánh bạc thấp (5.686.500 đồng), bản thân bị cáo có trình độ học vấn thấp (9/12), có nơi cư trú rõ ràng, là lao động chính, chăm sóc cha bị bệnh tai biến và con nhỏ, gia đình bị cáo thuộc trường hợp có công với Cách Mạng (ông nội của bị cáo là Liệt sĩ L). Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, không cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà giữ nguyên mức hình phạt nhưng cho hưởng án treo, đồng thời ấn định thời gian thử thách cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo đối với bị cáo. Điều này là phù hợp với Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018, Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và cũng phù hợp với lời đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa.
[6] Ngoài việc xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm còn xem xét các vấn đề khác không bị kháng cáo, không bị kháng nghị theo Điều 345 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[6.1] Đối với 01 máy tính casio còn giá trị sử dụng nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên tịch thu tiêu hủy là chưa đúng, mà cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
[6.2] Đối với các bản photocopy phơi đề đã được đối chiếu và lưu vào hồ sơ vụ án. Riêng đối với các tờ phơi đề đã được chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân và những thông tin trong các phơi đề này đã được chính bị cáo thừa nhận nên không cần chuyển các tờ phơi này để lưu vào hồ sơ vụ án.
[6.3] Đối với số tiền 5.000.000 đồng mà bị cáo đã tự nguyện nộp theo Biên lai số 0005321 ngày 21/6/2024 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh cần sung vào ngân sách Nhà nước.
[7] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[8] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không có kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào Điều 345; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Bé T và sửa bản án sơ thẩm.
2. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt: Lê Bé T 01 (một) năm tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (ngày 21/6/2024).
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Nguyễn Phích, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Luật thi hành án hình sự.
3. Căn cứ Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021;
Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước đối với:
+ 01 (một) máy tính Casio (theo Phiếu nhập kho vật chứng số NK23/247TAM ngày 25/8/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh).
+ Số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) theo Biên lai số 0005321 ngày 21/6/2024 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án;
Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo không phải nộp.
5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không có kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
(Đã giải thích chế định án treo cho bị cáo)
Bản án về tội đánh bạc số 185/2024/HS-PT
Số hiệu: | 185/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/06/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về