TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 419/2023/HS-ST NGÀY 30/08/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN, TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 30 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 485/2023/HSST ngày 29/6/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3143/2023/QĐXXST-HS ngày 31/7/2023, đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Trung T; Giới tính: Nam; Sinh năm 1988, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký thường trú: I P, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Con ông: (Không rõ) và bà: Nguyễn Thị X, sinh năm 1956; Vợ: Nguyễn Thị Kinh P, sinh năm 1991 (không đăng ký kết hôn), con: Có 01 người, sinh năm 2022; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 206/2009/HSST ngày 17/7/2009 Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/8/2011;
Bị bắt, tạm giam từ ngày 04/3/2023. Có mặt.
2. Huỳnh Thị Bích L; Giới tính: Nữ; Sinh năm 1991, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký thường trú: A N, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: B Khu Ô, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Nghề nghiệp: Buôn bán; Con ông: Huỳnh Nhật Q (chết) và bà Lê Thị L1 (chết); Chồng: (Không rõ), con: Có 02 người, lớn sinh năm 2012 và nhỏ năm 2018; Tiền sự: Không;
Tiền án: Bản án số 04/2022/HSST ngày 06/01/2022 Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/02/2022.
Nhân thân: Từ tháng 11/2007 đến tháng 11/2008, chấp hành án phạt tù về tội “Cướp giật tài sản” tại Trại giam Thủ Đức, Bộ Công an (theo Bản án số 36/2008/HSST ngày 28/3/2008 của Tòa án nhân dân Quận 11). Từ tháng 12/2008 đến tháng 01/2011, chấp hành án phạt tù về tội “Cướp giật tài sản” tại Trại giam Thủ Đức, Bộ Công an (theo Bản án số 197/2009/HSST ngày 17/7/2009 của TAND quận Tân Phú). Từ tháng 8/2013 đến tháng 5/2016, chấp hành án phạt tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Trại giam Thủ Đức, Bộ Công an (theo Bản án số 19/2014/HSST ngày 08/4/2014 của TAND huyện Nhà Bè).
Bị bắt, tạm giam từ ngày 04/3/2023. Có mặt.
Bị hại: Ông Odemis F, Quốc tịch T; Thường trú: T; Là khách du lịch, cư trú ngắn hạn tại Việt Nam. Vắng mặt.
Người bào chữa: Ông Vũ Quốc T1 - luật sư thuộc Công ty L3, đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, bào chữa cho bị cáo Huỳnh Thị Bích L. Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1984; Nơi cư trú: B L, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.
2. Bà Nguyễn Thị Mỹ T3, sinh năm 1997; Nơi cư trú: A8/20H tổ A, ấp A, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 20 phút ngày 27/02/2023, Nguyễn Trung T một mình điều khiển xe mô tô biển số 59D3-191.xx lưu thông trên đường N thuộc quận T thì nhìn thấy anh Odemis F (Quốc tịch T) và chị Aizirek T4 (Quốc tịch K) đang đi bộ dưới lòng đường, anh F đang sử dụng điện thoại di động hiệu Iphone 13 Pro 256Gb. T nảy sinh ý định cướp giật chiếc điện thoại di động của anh F bán lấy tiền tiêu xài nên điều khiển xe mô tô bám theo phía sau. Khi anh F và chị Aizirek T4 đi bộ băng qua đường đi theo hướng ngược lại về đường B, đến trước nhà địa chỉ số C N, phường P, quận T thì T điều khiển xe mô tô chạy vượt lên phía trước rồi quay xe lại chạy trên lề đường áp sát phía trước anh F, dùng tay trái giật được chiếc điện thoại di động của anh F rồi tăng ga tẩu thoát. Sau khi cướp giật được điện thoại di động, T đi tìm nơi bán nhưng không được nên gọi điện thoại cho Huỳnh Thị Bích L (bạn gái cũ của T) nhờ L bán giúp thì L đồng ý. L dùng điện thoại di động liên lạc qua ứng dụng Messenger với đối tượng tên L2 (chưa rõ lai lịch) để bán điện thoại, L2 yêu cầu gửi hình ảnh điện thoại cần bán để L2 xem trước nên L gọi điện thoại kêu T chụp hình chiếc điện thoại cướp giật được gửi cho L để gửi cho L2. Sau khi xem hình chiếc điện thoại, L2 đồng ý mua nên hẹn L mang điện thoại đến khu vực “Cầu Trắng” thuộc phường B, quận B để xem điện thoại. L điện thoại hẹn gặp T rồi cả hai cùng đi gặp L2, trên đường đi T nói cho L biết chiếc điện thoại di động cần bán do T vừa cướp giật được của người khác mà có, nhưng L vẫn tiếp tục dẫn T đến gặp L2 để bán điện thoại. T và L đến trước cổng Trường Mầm non H trên đường số A, phường B, quận B gặp L2, tại đây L2 yêu cầu đưa điện thoại cho để L2 mang về xem rồi sẽ báo giá, nếu đồng ý bán L2 sẽ chuyển tiền qua tài khoản Ngân hàng, thì T đồng ý giao điện thoại di động cho L2 rồi tất cả đi về. Sau khi xem điện thoại xong, L2 điện thoại báo cho L biết giá điện thoại là 7.000.000 đồng, nếu đồng ý bán thì gửi số tài khoản Ngân hàng để L2 chuyển tiền, Loan báo lại thì T đồng ý bán, rồi mượn tài khoản Ngân hàng của anh Nguyễn Văn T2 để nhận tiền rồi nhắn số tài khoản cho L, đồng thời nói với L chỉ lấy 5.000.000 đồng, cho L 2.000.000 đồng. Khoảng 20 phút sau, tài khoản Ngân hàng M số 07954746xx của anh T2 nhận được 5.000.000 đồng từ tài khoản Ngân hàng T6 số 79786787xx của Nguyễn Thị Mỹ T3. Sau đó, T cùng anh T2 đến trụ ATM địa chỉ số H L, phường T, quận T, nhờ anh T2 rút 5.000.000 đồng, T trả nợ cho anh T2 2.000.000 đồng, còn lại 3.000.000 đồng T cất giữ để tiêu xài.
Sau khi anh Odemis F bị cướp giật điện thoại di động, anh Nguyễn Lê Hoài B là người biết việc đã đến Công an phường P, quận T trình báo vụ việc (bút lục 24).
Qua điều tra, truy xét, trích xuất camera tại hiện trường, ngày 28/02/2023, Công an quận T đã mời T và L về làm việc, cả hai đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận T đã tiến hành thu giữ chiếc xe mô tô biển số 59D3-191.xx (T sử dụng làm phương tiện cướp giật) cùng một số đồ vật khác có liên quan. Cùng ngày, ra Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Trung T, Huỳnh Thị Bích L và chuyển vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết theo thẩm quyền.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Trung T và Huỳnh Thị Bích L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên (bút lục 201-214, 235-248).
Bản Kết luận định giá tài sản số 2310/KL-HĐĐGTS ngày 20/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong Tố tụng Hình sự cấp Thành phố, UBND Thành phố Hồ Chí Minh kết luận 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 Pro, dung lượng 256GB, tại thời điểm ngày 27/02/2023 trị giá 17.341.000 đồng (bút lục 127, 128).
Ghi lời khai anh Nguyễn Văn T2 cho biết vào khoảng 11 giờ ngày 27/02/2023, anh T2 có ngồi uống bia với Nguyễn Trung T tại khu vực quận T thì T nói anh T2 đưa số tài khoản Ngân hàng để T chuyển tiền trả nợ cho anh T2 2.000.000 đồng đã mượn trước đó, anh T2 đồng ý và cung cấp số tài khoản Ngân hàng M số 07954746xx của mình cho T. Khoảng 05 phút sau, tài khoản của anh T2 nhận được 5.000.000 đồng từ tài khoản Ngân hàng T6 số 79786787xx của Nguyễn Thị Mỹ T3. Sau khi rút tiền, T đã trả nợ cho anh T2 2.000.000 đồng, anh T2 không biết đây là tiền T bán điện thoại cướp giật được mà có (bút lục 167- 170).
Ghi lời khai chị Nguyễn Thị Mỹ T3 cho biết đối tượng tên L2 là bạn trai cũ của chị T3, khoảng 22 giờ 40 phút ngày 27/02/2023, L2 đến gặp chị T3 tại khu vực Kênh N thuộc quận B và nhờ chị T3 chuyển khoản giúp 5.000.000 đồng vào tài khoản Ngân hàng M số 07954746xx, chị T3 đồng ý và đã chuyển tiền giúp, sau đó L2 đưa lại cho chị T3 5.000.000 đồng tiền mặt, chị T3 không biết L2 chuyển tiền để làm gì và cũng không biết L2 đang làm gì, ở đâu (bút lục 179- 181).
Vật chứng thu giữ: Có bảng kê kèm theo Cáo trạng.
Về dân sự: Qua xác minh anh Odemis F đã xuất cảnh rời khỏi Việt Nam ngày 19/3/2023 (bút lục 136) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa làm rõ được yêu cầu bồi thường dân sự. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã có Công văn gửi Sở Ngoại vụ Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị hỗ trợ làm việc với bị hại Odemis F để xác định bồi thường dân sự nhưng đến nay chưa có kết quả (bút lục 136a).
Tại bản Cáo trạng số: 333/CT-VKS-P2 ngày 26/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố:
- Nguyễn Trung T về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Huỳnh Thị Bích L về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, từ đó giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị: áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Trung T mức hình phạt từ 04 năm đến 05 năm tù, về tội “Cướp giật tài sản”; áp dụng 1 Điều 323, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Bích L mức hình phạt từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Về xử lý vật chứng của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
- 01 (một) xe mô tô Honda Wave, màu xanh, biển số 59D3-191.xx, số máy JA39E2613157, số khung RLHJA392XNY116208, xe do bị cáo T đứng tên chủ sở hữu, bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước;
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Note 7, thu giữ của bị cáo T, bị cáo dùng vào việc liên lạc phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước;
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus, thu giữ của bị cáo L, bị cáo dùng vào việc liên lạc phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước;
- 01 (một) áo thun ngắn tay màu vàng, 01 (một) quần jean dài xám bạc, 01 (một) mũ bảo hiểm màu trắng, thu giữ của bị cáo T, bị cáo không có nhu cầu nhận lại và là vật không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy;
- 01 (một) bản sao kê tài khoản Ngân hàng M vào ngày 27/02/2023 của tài khoản số 07954746xx, là chứng cứ của vụ án nên cần tiếp tục lưu vào hồ sơ vụ án.
- Số tiền 7.200.000 đồng (trong đó thu giữ của bị cáo T 5.200.000 đồng, thu giữ của Nguyễn Văn T2 2.000.000 đồng) đã nhập Kho bạc Nhà nước Q1 và số tiền 10.000.000 đồng, do bà Nguyễn Thị X (mẹ của bị cáo T) giao nộp để bồi thường cho bị hại, tổng cộng là 17.200.000 đồng, cần tịch thu gửi vào tài khoản thi hành án, khi bị hại có yêu cầu thì thực hiện nghĩa vụ dân sự về tài sản cho người bị hại.
Về trách nhiệm dân sự: Điện thoại di động Iphone 13Pro của người bị hại qua định giá xác định là 17.341.000 đồng, bị cáo đã nộp khắc phục được số tiền 17.200.000 đồng, còn lại số tiền 141.000 đồng bị cáo phải tiếp tục bồi thường.
Luật sư Vũ Quốc T1 bào chữa cho bị cáo Huỳnh Thị Bích L: đồng ý với cáo trạng truy tố bị cáo Huỳnh Thị Bích L về tội danh, điều, khoản áp dụng; bên cạnh các tình tiết giảm nhẹ mà Viện kiểm sát đề nghị cho bị cáo: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm các tình tiết: bị cáo chỉ được bị cáo T hứa cho nhưng thực tế không có nhận được tiền hưởng lợi, bị cáo có hoàn cảnh rất khó khăn, là lao động duy nhất nuôi hai con còn nhỏ, tích cực hợp tác với cơ quan điều tra, là các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, từ đó xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp nhất để bị cáo sớm chấp hành xong về nuôi con nhỏ.
Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát và trong lời nói sau cùng các bị cáo đã ăn năn, hối cải về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Quá trình điều và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Trung T và Huỳnh Thị Bích L không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Trung T và Huỳnh Thị Bích L tại phiên tòa cũng như các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định:
Vào khoảng 21 giờ ngày 27/02/2023, bị cáo Nguyễn Trung T đã sử dụng xe mô tô biển số 59D3-191.xx, là nguồn nguy hiểm cao độ, làm phương tiện để áp sát rồi giật lấy chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 13 Pro trị giá 17.341.000 đồng của anh Odemis F (Quốc tịch T) tại trước nhà địa chỉ số C N, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, rồi nhanh chóng tăng ga xe mô tô bỏ chạy thoát. Hành vi trên của bị cáo T đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản”, thuộc trường hợp “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”, là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.
Sau khi giật được, bị cáo T nhờ bị cáo Huỳnh Thị Bích L bán chiếc điện thoại cướp giật được cho đối tượng tên L2 (chưa rõ lai lịch) được 7.000.000 đồng, bị cáo L biết rõ chiếc điện thoại này do bị cáo T cướp giật được của người khác nhưng vẫn đồng ý bán giúp và được bị cáo T hứa cho 2.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo L đã phạm vào tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tội danh và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Do đó, Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Trung T và Huỳnh Thị Bích L là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Các bị cáo nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình sẽ bị pháp luật trừng trị, nhưng chỉ vì tham lam, hám lợi mà các bị cáo đã bất chấp hậu quả. Vì vậy cần có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm cải tạo giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Huỳnh Thị Bích L đã có tiền án, chưa được xóa án tích mà bị cáo lại tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này của bị cáo được xác định là tái phạm, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Đối với bị cáo Nguyễn Trung T: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã nộp lại số tiền và tác động gia đình nộp tiền để khắc phục hậu quả, là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.
- Đối với bị cáo Huỳnh Thị Bích L: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính nuôi 2 con còn nhỏ, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Điện thoại di động Iphone 13Pro của người bị hại qua định giá xác định là 17.341.000 đồng, bị cáo đã nộp khắc phục được số tiền 17.200.000 đồng, còn lại số tiền 141.000 đồng buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho người bị hại [5] Về vật chứng:
- 01 (một) xe mô tô Honda Wave, màu xanh, biển số 59D3-191.xx, số máy JA39E2613157, số khung RLHJA392XNY116208, xe do bị cáo T đứng tên chủ sở hữu, bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước;
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Note 7, thu giữ của bị cáo T, bị cáo dùng vào việc liên lạc phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước;
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus, thu giữ của bị cáo L, bị cáo dùng vào việc liên lạc phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước;
- 01 (một) áo thun ngắn tay màu vàng, 01 (một) quần jean dài xám bạc, 01 (một) mũ bảo hiểm màu trắng, thu giữ của bị cáo T, bị cáo không có nhu cầu nhận lại và là vật không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy;
- 01 (một) bản sao kê tài khoản Ngân hàng M vào ngày 27/02/2023 của tài khoản số 07954746xx, là chứng cứ của vụ án nên cần lưu vào hồ sơ vụ án.
- Số tiền 17.200.000 đồng thu giữ của bị cáo T và gia đình bị cáo T nộp, cần giao cho Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh để trả cho người bị hại.
[5] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Trung T còn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ nêu trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung T 04 (bốn) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 04/3/2023.
- Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Bích L 01 (một) năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời hạn từ tính từ ngày 04/3/2023.
- Căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Buộc bị cáo Nguyễn Trung T bồi thường số tiền 141.000 (Một trăm bốn mươi mốt ngàn) đồng cho người bị hại O.
- Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
+ Giao cho Cục Thi hành án Thành phố Hồ Chí Minh số tiền 17.200.000 (Mười bảy triệu hai trăm ngàn) đồng để thi hành trách nhiệm bồi thường của bị cáo Nguyễn Trung T cho người bị hại O.
+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 (một) xe mô tô Honda Wave @, màu xanh, biển số 59D3-191.xx, số máy JA39E2613157, số khung RLHJA392XNY116208; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Note 7, số Imei 1: 868811042603697, số Imei 2: 868811043203695 và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus, màu xám bạc, số Imei 358628093382303.
+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) áo thun ngắn tay màu vàng, 01 (một) quần jean dài xám bạc, 01 (một) mũ bảo hiểm màu trắng.
+ Lưu vào hồ sơ vụ án 01 (một) bản sao kê tài khoản Ngân hàng M vào ngày 27/02/2023 của tài khoản số 07954746xx.
(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số: NK2023/394 ngày 09 tháng 8 năm 2023 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh) Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Nguyễn Trung T phải nộp 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Các bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tội cướp giật tài sản, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 419/2023/HS-ST
Số hiệu: | 419/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về