Bản án về tội cướp giật tài sản số 130/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 130/2024/HS-ST NGÀY 12/08/2024 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 8 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 118/2024/TLST- HS ngày 05 tháng 6 năm 2024 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn M, sinh ngày: 13/10/2003; tại Cà Mau; Nơi cư trú: ấp B, xã T, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Nguyễn Thị Th; vợ: Huỳnh Thị Cẩm Th (bị cáo cùng vụ án); tiền án, tiền sự: Không; bị khởi tố và bị tạm giam từ ngày 24/01/2024 đến nay; bị cáo bị tạm giam có mặt.

2. Họ và tên: Huỳnh Thị Cẩm Th, sinh ngày: 12/12/2002; tại Cà Mau; Nơi cư trú: Ấp B, xã K, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; giới tính: Nữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn S và bà Thao Thị L; chồng: Nguyễn Văn M (bị cáo cùng vụ án); tiền án, tiền sự: Không; bị khởi tố và bị cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 16/01/2024; bị bắt tạm giam ngày 31/7/2024 đến nay; bị cáo bị tạm giam có mặt.

- Bị hại:

1. Bà Lê Ánh D, sinh năm: 2008 (xin vắng mặt) Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Lê Thanh Th, sinh năm: 1991; Cùng địa chỉ: khóm X, phường Y, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau (xin vắng mặt) 

2. Bà Phạm Yến Nh, sinh năm: 2007 (vắng mặt) Người đại diện hợp pháp của bị hại Nhi: Bà Trần Thu Th, sinh năm: 1980; Cùng địa chỉ: ấp B, xã T, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau (vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1979; Địa chỉ cư trú: ấp B, xã T, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong các ngày 18/12/2023 và 08/01/2024, Nguyễn Văn M và Huỳnh Thị Cẩm T2 thực hiện hai vụ cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Cà Mau, cụ thể:

Vụ thứ nhất, khoảng 17 giờ ngày 18/1/2023, Nguyễn Văn M điều khiển xe mô tô Wave Alpha 69B1-458.xx chở Huỳnh Thị Cẩm T2 đi mua đồ ăn trên đường quốc lộ 1A thuộc ấp Bà Điều, xã Lý Văn Lâm, thành phố Cà Mau phát hiện Lê Ánh D sinh ngày 21/12/2008 (14 tuổi 11 tháng 27 ngày) đang điều khiển xe mô tô 69A-086.xx trên người Dương có một điện thoại Samsung Galaxy G53 (G5), (8G-128 G) bị nhô lên khỏi túi quần. M rủ T2 giật điện thoại của Dương, T2 đồng ý. M điều khiển xe chở T2 chạy gần xe của Dương để T2 giật điện thoại, M tăng ga bỏ chạy. Sau đó M và T2 mang đến cửa hàng điện thoại “Hoàng T3” do Nguyễn Văn T3 làm chủ bán được 1.600.000 đồng và cả hai tiêu xài cá nhân. Đến ngày 22/12/2023, Công an xã Lý Văn Lâm, thành phố Cà Mau mời M và T2 làm việc, cả hai thừa nhận hành vi phạm tội; tạm giữ của M một nón bảo hiểm màu trắng, bên trong có sọc ba màu xanh lá cây, trắng, đỏ; một áo sơ mi dài tay màu trắng bên trong ghi hiệu Affliction; một xe mô tô Wave Alpha 69B1-458.xx; tạm giữ của T2 một nón bảo hiểm màu trắng bên trong nón có sọc ba màu xanh lá cây, trắng, đỏ. Ngày 23/12/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau tạm giữ của Nguyễn Văn T3 một điện di động hiệu Samsung Galaxy A53 (5G), (8g+128GB) đã qua sử dụng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số:130/KL-HĐĐG ngày 28 tháng 12 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Một điện di động hiệu Samsung Galaxy A53 (5G), (8g+128GB) đã qua sử dụng còn lại 68,34%, trị giá 6.827.166 đồng.

Vụ thứ hai, khoảng 17 giờ ngày 08/01/2024, M điều khiển xe moto hiệu Nouvo màu đỏ mang biển số 69C1 – 093.xx chở T2 đến cây xăng Biên Phòng thuộc Ấp 1, xã Tắc Vân, thành phố Cà Mau để đổ xăng. T2 nhìn thấy Phạm Yến Nh đến đổ xăng và một điện thoại di động Xiaomi Redmi 12 màu xanh đang nhô lên trong balo của Nhi, T2 nói với M “có điện thoại kìa anh ơi, chơi hông”, M đồng ý. M điều khiển xe áp sát theo sau bên trái xe của Nhi để T2 giật điện thoại của Nhi, T2 nói với M “anh ơi giật được rồi”, M điều khiển xe về hướng Trung tâm thành phố Cà Mau đến tiệm điện thoại Hoàng T3 bán được 1.300.000 đồng. Khoảng 15 giờ ngày 15/01/2024, Công an xã Tắc Vân mời M và T2 làm việc, cả hai thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Công an tạm giữ của M 01 xe moto hiệu Nouvo mang biển số 69C1 – 093.xx và tạm giữ của Nguyễn Văn T3 một điện thoại Xiaomi Redmi 12 màu xanh.

Tại Kết luận định giá tài sản số 15/KL-HĐĐGTS ngày 16/02/2024 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 điện thoại di động Xiaomi Redmi 12 (8G – 128G) màu xanh (đã qua sử dụng) tính đến ngày 08/01/2024 giá trị còn lại 3.648.000 đồng.

Quá trình điều tra, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, cả hai bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng năng trách nhiệm hình sự “phạm tội hai lần trở lên”.

Về vật chứng trong vụ án:

Vụ thứ nhất: Hai nón bảo hiểm màu trắng, bên hông có 03 màu xanh – trắng – đỏ và một áo sơ mi dài tay màu trắng bên trong ghi hiệu AFFLICTION của M và T2; Một xe moto hiệu Honda, loại Wave alpha màu xanh, biển số 69B1 – 458.xx của ông Nguyễn Văn L (cha ruột M) đứng tên chủ sở hữu. M sử dụng xe này để cướp giật tài sản, ông Lẹ không biết. Riêng 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A53 (G5), (8G - 128G) màu xanh đã qua sử dụng của Lê Ánh D, Cơ quan điều tra đã trả lại cho Dương.

Vụ thứ hai: Một điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi 12 màu xanh của Phạm Yến Nh. Cơ quan điều tra đã trả lại cho Nhi. Còn xe moto hiệu Nouvo mang biển số 69C1 – 093.xx của ông Nguyễn Văn L (cha ruột M) đứng tên chủ sở hữu. M sử dụng xe này để cướp giật tài sản, ông Lẹ không biết nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho ông Lẹ.

Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại Lê Ánh D, Phạm Yến Nh đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì thêm. Đối với người liên quan Nguyễn Văn T3 đã nhận lại sồ tiền 2.900.000 đồng nên không yêu cầu gì thêm các bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 116/CT-VKS ngày 03 tháng 6 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau truy tố Nguyễn Văn M và Huỳnh Thị cẩm T2 về tội "Cướp giật tài sản" theo quy định tại điểm d, g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau giữ nguyên cáo trạng truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d, g khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo M; riêng T2 áp dụng thêm điểm n khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt các bị cáo Nguyễn Văn M và Huỳnh Thị Cẩm T2, mỗi bị cáo từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy Hai nón bảo hiểm màu trắng, bên hông có 03 màu xanh – trắng – đỏ và một áo sơ mi dài tay màu trắng bên trong ghi hiệu AFFLICTION. Trả lại cho ông Nguyễn Văn L một xe mô tô hiệu Wave Alpha 69B1-458.xx.

Ý kiến của các bị cáo: Thống nhất với cáo trạng và Luận tội của Đại diện Viện kiểm sát.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo M xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo T2 xin giảm hình phạt và xin hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Văn M và Huỳnh Thị Cẩm T2 khai nhận: Trong 02 ngày 18/12/2023 và 08/01/2024, tại ấp Bà Điều, xã Lý Văn Lâm và ấp 1, xã Tắc Vân, thành phố Cà Mau, M và T2 dùng xe mô tô 69B1 – 458.xx và 69C1 – 093.xx của ông Nguyễn Văn L để cướp giật một điện thoại di động Samsung Galaxy A53 của Lê Ánh D (dưới 16 tuổi), trị giá 6.827.166 đồng và một điện thoại Xiaomi Redmi 12 màu xanh của Phạm Yến Nh trị giá 3.648.000 đồng nhằm mục đích chi xài cá nhân. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của các bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp nên đã phạm vào tội "Cướp giật tài sản" theo quy định tại điểm d, g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự, cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn M và Huỳnh Thị Cẩm T2 là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật công nhận và bảo vệ. Các bị cáo thực hiện tội phạm với thủ đoạn nguy hiểm đó là sử dụng xe môtô bất ngờ áp sát người đi đường để thực hiện hành vi cướp giật, chiếm đoạt tài sản của họ khi thấy có sơ hở, mất cảnh giác trong việc quản lý tài sản. Hành vi của các bị cáo đã thể hiện sự manh động, liều lĩnh, coi thường pháp luật, không những gây hậu quả làm thiệt hại về tài sản mà còn có thể gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng cho người khác, gây mất trật tự, trị an ở địa phương, tạo tâm lý bức xúc, lo ngại trong nhân dân. Trong vụ án này các bị cáo M và T2 phạm tội trong trường hợp giản đơn, không có bàn bạc, phân công vai trò, phạm tội nhất thời. Vì vậy, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do các bị cáo đã thực hiện. Đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, ngăn chặn phòng ngừa tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội hai lần là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, người đại diện hợp pháp của bị hại Phạm Yến Nh là bà Trần Thu T2 xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo T2 tại thời điểm phạm tội bị cáo đang mang thai nên áp dụng điểm n khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo T2 xin được hưởng án treo, xét thấy bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, có khung hình phạt từ 03 năm đến 10 năm tù nên không thuộc trường hợp được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng không chấp nhận yêu cầu của bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản các bị cáo chiếm đoạt đã trả cho các bị hại và các bị hại không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ hai nón bảo hiểm màu trắng, bên hông có 03 màu xanh – trắng – đỏ và một áo sơ mi dài tay màu trắng bên trong ghi hiệu AFFLICTION, các bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy. Đối với một xe moto hiệu Nouvo mang biển số 69C1 – 093.xx và xe mô tô Wave Alpha 69B1-458.xx qua điều tra là của ông Nguyễn Văn L đứng tên chủ sở hữu, bị cáo M lấy xe này để thực hiện hành vi phạm tội, ông Lẹ không biết nên Cơ quan điều tra trả xe Nouvo mang biển số 69C1 – 093.xx cho ông Lẹ là phù hợp, còn lại xe mô tô Wave Alpha 69B1-458.xx trả cho ông Lẹ (Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/6/2024).

[7] Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Văn M và Huỳnh Thị Cẩm T2, mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm d, g khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo M;

Căn cứ điểm d, g khoản 1 Điều 173; điểm s, n khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo T2;

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn M và Huỳnh Thị Cẩm T2 phạm tội "Cướp giật tài sản".

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 24/01/2024.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Cẩm T2 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 31/7/2024.

- Tịch thu tiêu hủy hai nón bảo hiểm màu trắng, bên hông có 03 màu xanh – trắng – đỏ và một áo sơ mi dài tay màu trắng bên trong ghi hiệu AFFLICTION. Trả lại cho ông Nguyễn Văn L một xe mô tô Wave Alpha 69B1-458.xx (Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/6/2024).

- Án phí hình sự sơ thẩm các bị cáo Nguyễn Văn M và Huỳnh Thị Cẩm T2, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

Các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người đại diện hợp pháp có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 130/2024/HS-ST

Số hiệu:130/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/08/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về