Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 30/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 30/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/10/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 07/10/2021 tại Hội trường Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 70/2021/TLST-HNGĐ ngày 26/3/2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 91/2021/QĐST-HNGĐ ngày 19/7/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 77/2021/QĐST-HNGĐ ngày 09/8/2021;

Thông báo dời ngày xét xử số: 77/2021/TB-TA ngày 06/9/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Hoài L, sinh năm 1990; Địa chỉ: xã N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Trương Công M, sinh năm 1985; Địa chỉ: phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt lần thứ hai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Về tình cảm:

* Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 15/3/2021 và qua quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Phạm Thị Hoài L trình bày: Chị và anh Trương Công M có đăng ký kết hôn vào ngày 24/6/2019 tại UBND xã Nghĩa Ninh, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, kết hôn hoàn toàn tự nguyện. Quá trình chung sống có nhiều khác biệt trong quan điểm sống, cách sống, suy nghĩ, cách nhìn nhận nên thường xuyên xẩy ra cải vã. Mặc dù vợ chồng đã ngồi lại với nhau trao đổi nhưng vẫn không giải quyết được mâu thuẫn, tháng 11 năm 2020 cải nhau đẫn đến chị L phải về nhà bố mẹ chị ở. Sau đó anh M về nhà mẹ chị L xin lỗi đón chị về ở cùng nhau được một thời gian thì lại cãi vã nhau, không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa. Mong Tòa án xem xét giải quyết cho chị và anh được ly hôn .

* Ý kiến của bị đơn anh Trương Công M trình bày: Ngày tháng năm kết hôn đúng như chị L đã trình bày. Quá trình chung sống anh, chị chung sống vẫn tương đối tốt, nhưng quan điểm sống khác nhau nhiều, có lúc cải nhau, tháng 3 năm 2021 chị L đón con về nhà bố mẹ chị sinh sống, anh đã nhắn tin đưa con về nhưng chị L không trả lời. Từ đó đến nay anh, chị sống ly thân. Nay chị L làm đơn xin ly hôn anh thấy tình cảm của vợ chồng không còn nên đồng ý ly hôn.

2. Về nuôi con chung: Chị Phạm Thị Hoài L và anh Trương Công M đều thừa nhận anh chị có một con chung Trương Hoàng Q, sinh ngày 04/6/2020.

- Ý kiến chị L từ khi vợ chồng ly thân cháu Q ở cùng chị, nguyện vọng chị xin được nuôi cháu, yêu cầu anh M đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con 2.000.000đồng một tháng.

- Ý kiến anh M đồng ý giao con cho chị L nuôi dưỡng anh đóng góp tiền nuôi con cho chị L 2.000.000 đồng một tháng.

3. Về chia tài sản: Chị L, anh M khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

Chị L có đơn đề nghị Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới giải quyết việc xin ly hôn giữa chị và anh M, anh M có địa chỉ cư trú tại phường Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35;

điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh, chị theo quy định của pháp luật. Nhưng chị L có mặt, anh M vắng mặt nên Toà án không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án đã ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 91/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19/7/2021 tại phiên tòa lần thứ nhất anh M vắng mặt, Toà án căn cứ vào khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự để ra Quyết định hoãn phiên toà số: 77/2021/QĐST-HNGĐ ngày 09/8/2021. Tại phiên tòa lần thứ hai anh M tiếp tục vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự Toà án tiến hành xét xử vắng mặt anh M.

[2]. Về hôn nhân: Chị Phạm Thị Hoài L và anh Trương Công M có đăng ký kết hôn hoàn toàn tự nguyện vào ngày 24/6/2019 tại UBND xã Nghĩa Ninh, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, theo giấy đăng ký kết hôn số 21 việc kết hôn của anh, chị đúng theo quy định của pháp luật. Vì vậy, hôn nhân giữa chị và anh là hợp pháp. Tại phiên toà chị L xác định tình cảm của chị đối với anh M không còn, sống không có hạnh phúc, xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không có tiếng nói chung, dẫn đến tình cảm của chị và anh ngày càng lạnh nhạt, hai bên đã cố gắng nhưng không có kết quả đã ly thân từ tháng 3 năm 2021 cho đến nay nên xin được ly hôn. Anh M vắng mặt tại phiên tòa nhưng theo Bản tự khai anh thừa nhận anh chị sống có mâu thuẩn đẫn đến cải nhau, anh đồng ý ly hôn với chị L. Qua nghị án Hội đồng xét xử xét thấy chị và anh có nhiều mâu thuẫn, sống không hợp tính, sống ly thân từ tháng 3 năm 2021 cho đến nay không ai quan tâm đến ai, ai tự lo cuộc sống riêng cho mình. Xác định được tình trạng hôn nhân của chị và anh không thể khắc phục được, đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xử cho chị L được ly hôn anh M là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3]. Về nuôi con chung: Chị Phạm Thị Hoài L và anh Trương Công M đều thừa nhận chị và anh có một con chung Trương Hoàng Q, sinh ngày 04/6/2020.

Xét điều kiện của hai bên thấy rằng nguyện vọng được trực tiếp nuôi con sau ly hôn là nguyện vọng chính đáng, thể hiện tình cảm trách nhiệm của cha mẹ đối với con, cả hai bên đều có đủ điều kiện để nuôi con. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần xem xét đến mọi mặt và quyền lợi của con, hạn chế thấp nhất những mất mát tình cảm không đáng có. Hiện cháu còn nhỏ, cần sự quan tâm săn sóc của người mẹ hơn, trong thời gian trước cũng như từ khi anh, chị ly thân đến nay chị L là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con bảo đảm tốt về mọi mặt. Tại phiên tòa anh M vắng mặt nhưng tại Bản tự khai anh M trình bày đồng ý giao con cho chị L nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận nguyện vọng của chị để giao con cho chị L chăm sóc nuôi dưỡng. Về tiền cấp dưỡng nuôi con chị L yêu cầu anh M đóng góp mỗi tháng 2.000.000 đồng một tháng anh M cũng đồng ý hoàn toàn phù hợp quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Về chia tài sản: Chị L, anh M khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[5]. Về án phí: Áp dụng khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội 14.

Anh M không phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, chị L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp 300.000 đồng tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0006756 ngày 26/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

Anh M phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ 300.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về điều luật áp dụng: Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, xử:

2. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện cho ly hôn giữa chị Phạm Thị Hoài L và anh Trương Công M.

3. Về nuôi con chung: Giao con chung Trương Hoàng Q, sinh ngày 04/6/2020 cho chị Phạm Thị Hoài L, trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng, anh Trương Công M phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con với chị L 2.000.000 đồng/tháng (Hai triệu một tháng) kể từ tháng 10/2021 cho đến khi cháu Q đủ 18 tuổi.

Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

4. Về chia tài sản: Chị Phạm Thị Hoài L, anh Trương Công M khai không có tài sản, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Về án phí:

- Chị Phạm Thị Hoài L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp 300.000 đồng tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0006756 ngày 26/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

- Anh Trương Công M phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ 300.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

Trong trường hợp bản án thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ngày 07/10/2021, đương sự vắng mặt tại phiên toà hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 30/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:30/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về