TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 27/2022/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 31 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 157/2022/TLST–HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2022 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2022/QĐXXST–HNGĐ ngày 28 tháng 7 năm 2022 và theo Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2022/QĐST–HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Mai Thị H, sinh năm 1994 (Có mặt) Địa chỉ: Thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk
Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1990 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Mai Thị H (Chị H) trình bày:
Chị với anh Nguyễn Văn T (Anh T) là vợ chồng, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật và có 02 con chung. Trong quá trình chung sống, anh chị có quá nhiều mâu thuẫn, chửi bới lẫn nhau dẫn đến tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị và anh T đã sống ly thân, nên chị khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh T. Sau khi ly hôn, chị có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung cho đến tuổi trưởng thành. Về cấp dưỡng, tài sản chung và nợ chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại đơn trình bày nguyện vọng đề ngày 16 tháng 5 năm 2022, cháu Nguyễn Thị Kim N trình bày:
Cháu là con của bố Nguyễn Văn T, mẹ Mai Thị H. Trường hợp bố mẹ cháu không ở với nhau (Ly hôn), thì cháu có nguyện vọng được ở với mẹ .
Tại Văn bản xác nhận thông tin về nơi cư trú ngày 05 tháng 5 năm 2022 của Công an xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk xác nhận :
Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1990 và chị Mai Thị H sinh năm 1994 có hộ khẩu thường trú tại thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Tại Giấy chứng nhận kết hôn ngày 13 tháng 10 năm 2011 của Ủy ban nhân dân xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa thể hiện nội dung:
Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1990 và chị Mai Thị H, sinh năm 1994 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa ngày 13 tháng 10 năm 2011.
Tại Biên bản xác minh ngày 14 tháng 6 năm 2022 của Hội liên hiệp phụ nữ xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk cung cấp nội dung sau:
Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1990 và chị Mai Thị H, sinh năm 1994 là vợ chồng, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Cuộc sống hôn nhân giữa anh T và chị H không hạnh phúc. Anh T và chị H đã sống ly thân, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát sau khi phát biểu ý kiến đã khẳng định Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đầy đủ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Chị H chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án. Anh T mặc dù được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần hai. Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H cho chị H ly hôn với anh T. Giao con chung cho chị H nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung, nợ chung chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét. Về án phí và chi phí tố tụng, đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được xem xét tại phiên toà, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:
[1]. Về quan hệ pháp luật có tranh chấp và thụ lý vụ án:
+ Chị H và anh T là vợ chồng (Có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật). Trong quá trình chung sống, anh chị có 02 con chung. Hiện nay, anh chị không còn sống chung với nhau. Chị H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và nuôi con. Như vậy quan hệ pháp luật ở đây là: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS).
+ Chị H khởi kiện và có nộp tiền tạm ứng án phí. Anh T có hộ khẩu thường trú ở thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vì vậy Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk căn cứ vào các Điều 35; 39; khoản 3 Điều 195 của BLTTDS để thụ lý vụ án.
[2]. Về thủ tục tố tụng:
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không hòa giải được. Tòa đã triệu tập hợp lệ nhưng anh T vắng mặt tại phiên tòa lần hai, vì vậy Tòa án căn cứ Điều 227 của BLTTDS tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
[3]. Về nội dung quan hệ pháp luật có tranh chấp:
Đối với yêu cầu khởi kiện của chị Hiền, thì HĐXX xét thấy:
+ Về quan hệ hôn nhân:
Trong thời kỳ hôn nhân, anh T và chị H phát sinh mâu thuẫn dẫn đến anh chị đã sống ly thân. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy chị Hiền đã khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật, phù hợp với thông tin về tình trạng hôn nhân mà Hội phụ nữ xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk cung cấp, nên HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, cho chị H ly hôn với anh T.
+ Về con chung:
Anh T và chị H có 02 con chung. Hiện nay, các cháu đều dưới 18 tuổi, chị H có nguyện vọng nuôi dưỡng, thì cháu N đồng ý. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, anh T không tham gia, nên không biết ý kiến của anh T và không tiến hành hòa giải được. Do đó HĐXX giao cháu Nguyễn Thị Kim N sinh ngày 10 tháng 6 năm 2012 và cháu Nguyễn Minh T, sinh ngày 27 tháng 6 năm 2015 cho chị H trực tiếp chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (Đủ 18 tuổi).
+ Về cấp dưỡng, tài sản chung và nợ chung:
Chị H không không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên HĐXX không xem xét. [4]. Về án phí:
Vì đây là vụ án ly hôn, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, thì nguyên đơn – Chị H vẫn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (DSST) với vụ án ly hôn không có giá ngạch là 300.000đ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ các Điều 51; 65; 81; 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình;
- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Mai Thị H về việc yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và nuôi con.
+ Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Mai Thị H ly hôn với anh Nguyễn Văn T.
+ Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Kim N, sinh ngày 10 tháng 6 năm 2012 và cháu Nguyễn Minh T, sinh ngày 27 tháng 6 năm 2015 cho chị Mai Thị H trực tiếp chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (Đủ 18 tuổi).
Anh T có quyền, nghĩa vụ chăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở. Trường hợp anh T lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, thì chị H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh T.
2. Về án phí:
Chị Mai Thị H phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Được khấu trừ 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi thành án dân sự huyện K theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 60AA/2021/ 0008997 ngày 17 tháng 5 năm 2022.
3. Về quyền và thời hạn kháng cáo:
Chị Mai Thị H có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 27/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 27/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Krông Năng - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 31/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về