Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 71/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM H, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 71/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 13 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lâm H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 192/2022/TLST- HNGĐ ngày 09 tháng 5 năm 2022 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2022/QĐXXST – HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị Bích H, sinh năm 1994.

Địa chỉ: thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh L. Có mặt.

2. Bị đơn: anh Đỗ Văn T, sinh năm 1990.

Nơi đăng ký HKTT: thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh L.

Hiện đang chấp hành án tại: Trại giam Đại B đóng tại xã Lộc Th, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn xin ly hôn và lời trình bày của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bích H thì: Vợ chồng chị kết hôn với nhau vào năm 2014 trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đan Phượng, huyện Lâm H, tỉnh Lâm Đồng.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc được 02 năm thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung. Chị và anh T cũng đã nhiều lần ngồi lại tìm biện pháp cải thiện quan hệ tình cảm nhưng không có kết quả. Vợ chồng chị đã sống ly thân nhau, anh T hiện đang chấp hành án tại trại giam Đại B nên vợ chồng thể Hn gắn được với nhau.

Nay chị xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị H xác định vợ chồng có một con chung tên là Đỗ Hùng Long, sinh ngày 03/3/2015. Khi ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Chị không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị H xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị H xác định vợ chồng không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, chị H không yêu cầu gì thêm.

Bị đơn anh Đỗ Văn T trình bày ý kiến tại bản tự khai ghi ngày 13/6/2022 thì: Anh xây dựng gia đình với chị Nguyễn Thị Bích H năm 2014 trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đan Phượng, huyện Lâm H, tỉnh Lâm Đồng. Quá trình chung sống, vợ chồng anh không xảy ra mâu thuẫn gì. Tuy nhiên, do hiện nay anh đang phải chấp hành án phạt tù thì chị H làm đơn yêu cầu giải quyết ly hôn. Anh không muốn ly hôn nhưng nếu chị H cương quyết xin ly hôn thì anh đồng ý.

Về con chung: Anh T xác định vợ chồng có một con chung tên là Đỗ Hùng Long, sinh ngày 03/3/2015. Khi ly hôn, anh T đồng ý giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Anh T không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh T xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh T xác định vợ chồng không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, anh T không trình bày gì thêm.

Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh T vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa, chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm H phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng cũng như phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án theo hướng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của chị H. Về con chung đề nghị giao con chung tên là Đỗ Hùng Long, sinh ngày 03/3/2015 cho chị H có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Về cấp dưỡng nuôi con, chị H không có yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự xác định không có nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

Về án phí: Buộc đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận của đương sự cũng như ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Đỗ Văn T vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh T theo thủ tục chung là phù hợp.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Bích H và anh Đỗ Văn T xây dựng gia đình với nhau năm 2014, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đan Phượng, huyện Lâm H, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 23/3/2015 nên quan hệ hôn nhân của anh, chị là hợp pháp.

Tại phiên tòa, chị H xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng kéo dài, không còn khả năng cải thiện nên chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với anh T.

Theo kết quả xác minh các cơ quan, đoàn thể ở địa phương thì mâu thuẫn vợ chồng chị H và anh T phát sinh từ năm 2016, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung nên thường xuyên xảy ra xô xát nhau; hiện anh T đang chấp hành án phạt tù nên quan hệ tình cảm của anh chị không được cải thiện mà ngày càng trở nên xa cách nhau. Nay cả chị H và anh T đều thống nhất yêu cầu giải quyết ly hôn. Vì vậy, nếu tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân của anh chị cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai. Hội đồng xét xử, căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cần chấp nhận đơn khởi kiện về việc xin ly hôn của chị H, xử cho chị H được ly hôn với anh T là hoàn toàn phù hợp.

[3] Về con chung: Chị H và anh T xác định vợ chồng có một con chung tên là Đỗ Hùng Long, sinh ngày 03/3/2015. Khi ly hôn, chị H và anh T thống nhất giao con chung tên là Đỗ Hùng Long, sinh ngày 03/3/2015 cho chị H nuôi dưỡng, giáo dục. Xét thấy, từ khi vợ chồng anh chị sống ly thân đến nay, cháu Long vẫn sống cùng chị H, được chị H nuôi dưỡng, giáo dục tốt. Hiện anh T đang phải chấp hành án phạt tù nên không có điều kiện tốt để nuôi đưỡng, giáo dục con chung. Hơn nữa, cháu Long cũng có văn bản trình bày nguyện vọng được ở với m khi bố m ly hôn. Vì vậy, để đảm bảo ổn định về tâm sinh lý cho trẻ, cần căn cứ các Điều 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử giao con chung tên là Đỗ Hùng Long, sinh ngày 03/3/2015 cho chị H có trách nhiệm trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp.

Về việc cấp dưỡng nuôi con, quá trình giải quyết vụ án chị H không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự xác định không có và thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Buộc chị H phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 53, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Bích H, xử cho chị Nguyễn Thị Bích H được ly hôn với anh Đỗ Văn T.

2. Về con chung: giao con chung tên là Đỗ Hùng Long, sinh ngày 03/3/2015 cho chị Nguyễn Thị Bích H có trách nhiệm trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị Bích H phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003188 ngày 09/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm H. Chị Nguyễn Thị Bích H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự”.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (13/7/2022); đương sự vắng mặt tại phiên tòa có kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 71/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:71/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về