Bản án về ly hôn số 11/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 11/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/06/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 24 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 29/2022/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 6 năm 2022 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Th, sinh năm 1998.

Nơi ĐKHKTT: Thôn Đ, xã V, huyện K, tỉnh Hà Nam.

Địa chỉ: Thôn Ch, xã B, thị xã C, tỉnh Hải Dương; có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phạm Đức Ph - Luật sư của Công ty Luật TNHH Tô Cát thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.

2. Bị đơn: Anh Phạm Thái H, sinh năm 1992. Địa chỉ: Thôn Đ, xã V, huyện K, tỉnh Hà Nam.

Hiện đang chấp hành án tại Trại giam Nam Hà - Tổng cục VIII - Bộ công an, đóng tại xã Tân Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam; có đơn xin xét xử vắng mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Ông Phạm Văn H, sinh năm 1966.

3.2. Bà Đặng Thị Ph, sinh năm 1966.

Cùng địa chỉ: Thôn Đặng X, xã V, huyện K, tỉnh Hà Nam.

Người đại diện theo ủy quyền của ông H: Bà Đặng Thị Ph, sinh năm 1966; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn và các lời khai tại Tòa án, chị Đỗ Thị Th là nguyên đơn trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Phạm Thái H kết hôn với nhau tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Văn Xá, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam ngày 29 tháng 11 năm 2016 và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị chung sống hòa thuận đến cuối năm 2018 thì nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H chơi bời, đánh đập chị nhưng vì các con chị vẫn cố gắng chịu đựng. Mâu thuẫn căng thẳng nhất là vào tháng 9/2019, anh H bắt chị uống thuốc kích dục, chị không uống thì anh H đánh đập chị thậm tệ và chị đã phải bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở đó vợ chồng sống ly thân, chấm dứt quan hệ vợ chồng và không ai còn quan tâm gì đến cuộc sống, tình cảm của nhau. Cuối năm 2020, anh H vi phạm pháp luật và bị Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng xử phạt 06 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Hiện anh H đang chấp hành án tại Trại giam Nam Hà - Tổng cục VIII - Bộ công an. Từ khi anh H bị bắt, chị không vào thăm anh H lần nào. Nay chị xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh H, mâu thuẫn đã trầm trọng, kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án xem xét giải quyết cho chị được ly hôn anh H.

Tại bản biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 25/5/2022, anh Phạm Thái H là bị đơn trình bày: Về thời gian, điều kiện kết hôn, thời gian chung sống và thời gian sống ly thân của vợ chồng anh đúng như chị Th trình bày. Trong quá trình chung sống, giữa vợ chồng anh không xảy ra mâu thuẫn gì. Từ năm 2019, chị Th bỏ đi không chung sống cùng anh nữa. Nay chị Th xin ly hôn anh, anh không nhất trí vì anh vẫn còn tình cảm với chị Th, anh mong muốn chị Th suy nghĩ lại, đợi anh về để vợ chồng đoàn tụ, nuôi dậy con cái. Do anh đang chấp hành án tại Trại giam Nam Hà, không thể có mặt tại Toà án được nên anh đề nghị Tòa án cho anh vắng mặt tại tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, anh đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh.

Về con chung: Chị Th, anh H đều trình bày vợ chồng có hai con chung là Phạm Yến Gi, sinh ngày 05/6/2015 và Phạm Ngọc Yến Đ, sinh ngày 10/6/2017. Từ khi sinh ra các cháu ở với vợ chồng và bố mẹ đẻ của anh H là ông Phạm Văn H và bà Đặng Thị Ph. Sau khi chị Th bỏ đi, anh H đi chấp hành án phạt tù thì hai cháu ở với ông H, bà Ph. Khi ly hôn chị Th, anh H đều xin được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả hai con cho đến khi các con đủ 18 tuổi, lao động tự lập được, không yêu cầu phía bên kia cấp dưỡng nuôi con. Do anh H đang chấp hành án chưa trực tiếp nuôi các con được, anh nhờ bố mẹ đẻ anh tiếp tục nuôi các con hộ anh.

Về công sức nuôi dưỡng, chăm sóc con chung: Chị Th, anh H đều trình bày vợ chồng ông Phạm Văn H, bà Đặng Thị Ph có công nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Gi, cháu Đ. Khi ly hôn anh chị không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Về tài sản chung, tài sản riêng; công nợ; công sức đóng góp và diện tích đất nông nghiệp: Chị Th, anh H đều trình bày không có.

Ông Phạm Văn H, bà Đặng Thị Ph là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thống nhất trình bày: Ông bà là bố mẹ đẻ của anh H. Vợ chồng chị Th, anh H có hai người con chung là cháu Phạm Yến Gi, sinh ngày 05/6/2015 và cháu Phạm Ngọc Yến Đ, sinh ngày 10/6/2017. Từ khi các cháu sinh ra cho đến nay các cháu đã ở cùng vợ chồng ông bà và được ông bà trông nom, nuôi dưỡng. Chi phí ông bà bỏ ra cho mỗi cháu trung bình khoảng 2.000.000đồng/tháng. Nay chị Th ly hôn anh H, ông bà không yêu cầu Tòa án xem xét về phần công sức, chi phí ông bà đã bỏ ra để nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Giang, cháu Đ. Nguyện vọng của ông bà được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, quản lý giáo dục hai cháu thay anh H. Trường hợp chị Th tha thiết được nuôi con, ông bà cũng nhất trí để cháu Gi, cháu Đ cho chị Th nuôi dưỡng. Do công việc bận ông H ủy quyền cho bà Ph.

Tại phiên tòa, đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không ai thay đổi bổ sung gì. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đúng theo quy định pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Đỗ Thị Th. Xử ly hôn giữa chị Đỗ Thị Th và anh Phạm Thái H. Về con chung: Giao cháu Phạm Yến Gi, sinh ngày 05/6/2015 và cháu Phạm Ngọc Yến Đ, sinh ngày 10/6/2017 cho chị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, lao động tự lập được. Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con theo sự tự nguyện của chị Th. Án phí: Đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật trong tố tụng quan điểm đề nghị về việc giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Theo đơn khởi kiện của chị Đỗ Thị Th yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đối với anh Phạm Thái Hậu là bị đơn; địa chỉ: Thôn Đ, xã V, huyện K, tỉnh Hà Nam. Hiện đang chấp hành án tại Trại giam Nam Hà, đóng tại xã Tân Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Tại phiên tòa, chị Đỗ Thị Th và anh Phạm Thái H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông Phạm Văn H ủy quyền cho bà Đặng Thị Ph. Đây là trường hợp đương sự vắng mặt theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, do đó Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị Th và anh Phạm Thái H kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 29/11/2016 tại UBND xã Văn Xá, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến cuối năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống và sự đồng cảm dẫn đến vợ chồng hay xảy ra đánh, cãi, chửi nhau. Mâu thuẫn căng thẳng nên tháng 9/2019, chị Th bỏ về nhà bố mẹ đẻ chị ở. Cuối năm 2020, anh H vi phạm pháp luật, bị Toà án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xử phạt 06 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích, hiện đang phải chấp hành án tại Trại giam Nam Hà. Vợ chồng sống ly thân, chấm dứt quan hệ vợ chồng từ tháng 9/2019 cho đến nay, không quan tâm đến cuộc sống, tình cảm của nhau. Qua lài liệu xác minh, lời thừa nhận của đương sự thì mâu thuẫn của vợ chồng chị Th, anh H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị Th xin ly hôn anh Hậu là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình.

[3] Về con chung: Chị Đỗ Thị Th, anh Phạm Thái H có hai con chung là cháu Phạm Yến Gi, sinh ngày 05/6/2015 và cháu Phạm Ngọc Yến Đ, sinh ngày 10/6/2017. Hiện tại cả hai cháu đang ở với ông Phạm Văn H và bà Đặng Thị Ph. Xét nguyện vọng của chị Th, anh H đều xin được nuôi con chung, đây là nguyện vọng hoàn toàn đúng đắn của các đương sự. Tuy nhiên, hiện nay anh H đang phải chấp hành án tại Trại giam Nam Hà, không có điều kiện để trực tiếp trông non, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung. Do đó, nguyện vọng được nuôi dưỡng hai con của chị Th và không yêu cầu anh H cấp dưỡng cho con phù hợp quy định tại Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân gia đình được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con riêng: Không có.

[4] Về công sức nuôi dưỡng, chăm sóc con chung: Các đương sự thống nhất vợ chồng ông H, bà Ph có công nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Gi, cháu Đ nhưng đều không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[5] Về tài sản chung, riêng; công nợ; công sức đóng góp và diện tích đất nông nghiệp: Không có.

[5] Về án phí: Chị Đỗ Thị Th phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271; Điều 272; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 228; Điều 271; Điều 272; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự. Các Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Đỗ Thị Th và anh Phạm Thái H.

2. Về con chung: Giao cháu cháu Phạm Yến Gi, sinh ngày 05/6/2015 và cháu Phạm Ngọc Yến Đ, sinh ngày 10/6/2017 cho chị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, kể từ khi ly hôn cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, lao động tự lập được. Anh H không phải cấp dưỡng cho con theo sự tự nguyện của chị Th.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Án phí: Chị Đỗ Thị Th phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được đối trừ số tiền tạm ứng án phí chị Thảo đã nộp 300.000đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000073 ngày 25 tháng 3 năm 2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Chị Th đã nộp đủ.

4. Quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 11/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:11/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về