Bản án 995/2020/HNGĐ-ST ngày 23/09/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 995/2020/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 23 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 140/2020/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 438/2020/QĐXX-ST ngày 31 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phan Thị H, sinh năm 1977 (Có mặt) Địa chỉ: Số G, Đường số C, Tổ T, Khu phố C, phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Nguyễn Thế T, sinh năm 1976. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số G, Đường số C, Tổ T, Khu phố C, phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo của nguyên đơn bà Phan Thị H thì:

Bà và ông Nguyễn Thế T tự nguyện kết hôn được Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 09 ngày 18/12/2003.

Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung hạnh phúc được một thời gian sau đó phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính cách của hai vợ chồng hoàn toàn trái ngược nhau. Mặc dù bà H đã nhiều lần hàn gắn nhưng không được. Nếu sống chung thì mâu thuẫn sẽ trở nên trầm trọng hơn. Nay bà H xác định không còn tình cảm và cũng không còn khả năng hàn gắn với ông T nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: Bà Phan Thị H và ông Nguyễn Thế T có 02 người con chung là Nguyễn Thanh P (nữ), sinh ngày 19/7/2002 và Nguyễn Thế S (nam), sinh ngày 25 tháng 12 năm 2008. Bà H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng hai con chung, yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con 2.500.000đồng/01 con/01 tháng cho đến khi con chung dủ 18 tuổi.

Tài sản chung, nợ chung: Không có.

Bị đơn ông Nguyễn Thế T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và các giấy triệu tập. Tuy nhiên ông T vẫn vắng mặt không có ý kiến trình bày gửi đến Tòa, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và cũng không tham gia phiên tòa.

Tại phiên tòa bà Phan Thị H trình bày: Bà và ông T phát sinh mâu thuẫn từ năm 2013, ông T có quan hệ tình cảm với nhiều người phụ nữ khác, bà đã cố gắng hàn gắn nhưng không thành, vợ chồng sống chung nhà nhưng đã ly thân từ đầu năm 2019, ông T thường xuyên vắng nhà, không biết đi đâu. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông T, về con chung bà yêu cầu được nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thế S, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Con chung Nguyễn Thanh P, sinh năm 2002 đã trưởng thành. Bà yêu cầu được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thế S (nam), sinh ngày 25 tháng 12 năm 2008, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Ông Nguyễn Thế T đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán đã thực hiện đúng thủ tục tố tụng theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Việc chấp hành pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng, nguyên đơn bà H chấp hành đúng quy định của pháp luật. Ông T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng mà không đến tòa là vi phạm quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử và thư ký tại phiên tòa: Hội đồng xét xử và thư ký đã thực hiện đúng quy định của bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Đề nghị Tòa án chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của bà Phan Thị H, giao con chung Nguyễn Thế S (nam), sinh ngày 25/12/2008 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của bà H không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Con chung Nguyễn Thanh P, sinh năm 2002 đã trưởng thành. Tài sản chung, nợ chung không có nên không xem xét giải quyết. Án phí bà H phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu , chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cùng lời khai của nguyên đơn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Bà Phan Thị H khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Thế T cư trú tại quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh nên đây là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đơn khởi kiện của bà H phù hợp quy định tại Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Ông Nguyễn Thế T, là bị đơn trong vụ án, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên Tòa, tuy nhiên ông T vẫn vắng mặt lần thứ 2 không có lý do. Căn cứ theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông T.

[2] Về nội dung: Bà Phan Thị H và ông Nguyễn Thế T kết hôn với nhau do tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 09 ngày 18/12/2003 nên là hôn nhân hợp pháp.

Tòa án nhân dân quận Thủ Đức đã tiến hành các thủ tục tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông T, nhưng Tòa án không nhận được trả lời của ông, chứng tỏ ông không còn quan tâm đến quan hệ hôn nhân với bà H.

Về yêu cầu xin ly hôn của bà H, Hội đồng xét xử xét, theo lời trình bày của bà Hòa thì sau khi kết hôn vợ chồng sống chung hạnh phúc, đến năm 2013 giữa bà H và ông T phát sinh mâu thuẫn từ những bất đồng về quan điểm sống, tính cách vợ chồng trái ngược nhau. Vợ chồng tuy còn sống chung nhà nhưng ông T thường xuyên vắng nhà, và không có sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Vợ chồng đã tìm cách khắc phục nhưng vẫn không khắc phục được và đã sống ly thân từ đầu năm 2019 cho đến nay. Như vậy ông T, bà H đã vi phạm nghĩa vụ của vợ chồng là phải sống chung, thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình như theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Hiện nay, tình cảm vợ chồng không còn, cả hai cùng không muốn đoàn tụ gia đình, bà H có yêu cầu ly hôn để ổn định cuộc sống là yêu cầu chính đáng phù hợp với Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 nên được hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con chung: Căn cứ theo Giấy khai sinh số 50 quyển 01 ngày 16 tháng 3 năm 2009 và Giấy khai sinh số 206 Quyển 02 ngày 24 tháng 7 năm 2002 cùng do Ủy ban nhân dân xã Võ Liệt, hu yện T Chương, tỉnh Nghệ An cấp nên có cơ sở xác định Nguyễn T P (nữ), sinh ngày 19/7/2002 và Nguyễn Thế S (nam), sinh ngày 25 tháng 12 năm 2008 là con chung của bà H, ông T. Con chung Nguyễn T P (nữ), sinh ngày 19/7/2002 đã trưởng thành. Bà H có yêu cầu được trực tiếp trông nom chăm sóc nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thế S (nam), sinh ngày 25 tháng 12 năm 2008 và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông T đến Tòa án để giải quyết vụ án nhưng ông T vẫn không đến và cũng không có ý kiến gì về việc nuôi con. Vì vậy nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của H giao con chung Nguyễn Thế S (nam), sinh ngày 25 tháng 12 năm 2008 cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và ghi nhận sự tự nguyện của bà H không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự khai không có nên Tòa án không xem xét giải quyết trong vụ án này.

Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm bà H là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Các điều 51, 56, 57, 58, 59, 71, 72, 81, 82, 83, 84,107, 110, 116 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Luật Phí, lệ phí năm 2016;

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2014). Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Phan Thị H:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị H, sinh năm 1977 ly hôn với ông Nguyễn Thế T, sinh năm 1976 Về con chung: Con chung Nguyễn T P (nữ), sinh ngày 19/7/2002 đã trưởng thành. Giao con chung Nguyễn Thế S (nam), sinh ngày 25 tháng 12 năm 2008 cho bà Phan Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng , ghi nhận sự tự nguyện của bà H không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại Khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con. Việc cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi khi có lý do chính đáng.

Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự khai không có nên Tòa án không xem xét trong vụ án.

2. Về án phí sơ thẩm:

Án phí hôn nhân gia đình 300.000 đồng, bà Phan Thị H phải nộp nhưng được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí bà H đã nộp theo biên lai thu số 0056679 ngày 18 tháng 02 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà H đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo:

Án xử công khai sơ thẩm, đương sự có mặt được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của bộ luật Tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 995/2020/HNGĐ-ST ngày 23/09/2020 về ly hôn

Số hiệu:995/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về