Bản án 95/2019/HNGĐ-ST ngày 12/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XM, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 95/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12 tháng 8 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện XM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 227/2019/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 78/2019/QĐST- HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trương Thị Thùy N, sinh năm: 1981 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp PT, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu.

Bị đơn: Ông Phạm Ngọc T, sinh năm: 1966. (Vắng mặt).

HKTT: Xã QS, huyện ĐG, tỉnh ĐN.

Chỗ ở hiện nay: Ấp PT, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 23/4/2019 bản khai và các biên bản làm việc tiếp theo tại Tòa án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn – Bà Trương Thị Thùy N trình bày:

Bà N xây dựng gia đình với ông Phạm Ngọc T từ năm 2001, có đăng ký kết hôn tại UBND xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, có tổ chức lễ cưới, trước khi cưới có thời gian tìm hiểu nhau. Sau khi kết hôn bà N và ông T chung sống tại xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Cuộc sống chung hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bà N và ông T bất đồng quan điểm, vợ chồng không có tiếng nói chung nên thường phát sinh cải vã. Từ đó dẫn đến tình cảm vợ chồng rạn nứt, bà N và ông T đã cố gắng hòa giải mâu thuẫn nhưng tình hình vẫn không có gì thay đổi. Hiện bà N và ông T vẫn còn sống chung trong một nhà nhưng mạnh ai nấy sống, không còn quan tâm gì đến nhau.

Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà N yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Bà N và ông T có 01 con chung tên Phạm Hoàng Tuấn, sinh ngày 30/01/2002, hiện đang sống với bà N và ông T. Bà N yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tuấn và tự nguyện không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã triệu tập ông Phạm Ngọc T đến tham gia hòa giải nhiều lần nhưng ông T vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Do đó Tòa án lập biên bản về việc vắng mặt đương sự không tiến hành hòa giải được để có cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Tại các phiên Tòa ông T đều vắng mặt không có lý do.

Phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng trình tự, thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của đương sự, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự còn bị đơn vắng mặt tại các buổi làm việc trước đây cũng như tại các phiên tòa là chưa chấp hành đúng pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu ly hôn và giải quyết con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Quan hệ tranh chấp: Bà Trương Thị Thùy N yêu cầu ly hôn, giải quyết con chung với ông Phạm Ngọc T, đây là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại khoản 1, Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn ông Phạm Ngọc T có nơi cư trú tại địa bàn huyện XM theo điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện XM.

Trong quá trình tham gia tố tụng, ông Phạm Ngọc T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông T vắng mặt không có lý do. Vì vậy việc xét xử vắng mặt ông T là phù hợp với quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà N xây dựng gia đình với ông T vào năm 2001 có đăng ký kết hôn và được cấp giấy chứng nhận kết hôn (Giấy chứng nhận kết hôn số 21/2001 ngày 23/4/2001 tại UBND xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), xét đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Bà N và ông T chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân, do bà N và ông T bất đồng quan điểm sống nên thường phát sinh cãi vã, vợ chồng không có tiếng nói chung. Từ đó tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt, bà N và ông T đã ngồi lại để giải quyết mâu thuẫn nhưng tình hình vẫn không có gì thay đổi. Hiện bà N và ông T vẫn còn sống chung trong một nhà nhưng mạnh ai nấy sống, không quan tâm nhau.

Kết quả xác minh tại địa phương về mâu thuẫn giữa bà N và ông T phù hợp như lời trình bày của bà N. Do đó mâu thuẫn giữa bà N và ông T là có thật. Xét yêu cầu của bà N cho thấy sau khi mâu thuẫn xảy ra, lẽ ra bà N và ông T phải cùng tìm cách khắc phục những mâu thuẫn của vợ chồng để cuộc sống chung được hạnh phúc và cùng nhau chăm sóc nuôi dạy con cái nhưng bà N và ông T mặc dù còn sống chung trong một nhà nhưng mạnh ai nấy sống, không quan tâm gì đến nhau. Sau khi bà N gửi đơn, Tòa án đã tiến hành nhiều phiên hòa giải để đoàn tụ vợ chồng nhưng không thể hòa giải được, ông T vắng mặt không lý do, không thể hiện có thiện chí hòa giải.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy, tình cảm vợ chồng của bà N và ông T thật sự không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà N đối với ông T.

[3] Về con chung: Xét yêu cầu nuôi con của bà N cho thấy, từ khi bà N nộp đơn và Tòa án thụ lý vụ án cho đến nay ông T không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình về việc bà N có yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Xét nguyện vọng của cháu T cho thấy cháu có nguyện vọng ở với bà N nên Tòa án căn cứ vào thực tế và các quy định của Luật hôn nhân và gia đình, để tránh xáo trộn cuộc sống của con chung, giao cháu Tuấn cho bà N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Bà N không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con là sự tự nguyện của bà N nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, Điều 28, điểm a, khoản 1, Điều 35, điểm a, khoản 1, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Các Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của bà Trương Thị Thùy N đối với ông Phạm Ngọc T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trương Thị Thùy N được ly hôn với ông Phạm Ngọc T.

2. Về con chung: Bà Trương Thị Thùy N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Phạm Hoàng Tuấn, sinh ngày 30/01/2002. Ông Phạm Ngọc T có trách nhiệm giao cháu Tuấn cho bà N nuôi dưỡng. Ông Phạm Ngọc T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Phạm Ngọc T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà N không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

4. Về án phí: Bà Trương Thị Thùy N phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm bà N đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008042 ngày 26/4/2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà N đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.  

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 95/2019/HNGĐ-ST ngày 12/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:95/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về