Bản án 883/2019/HNGĐ-ST ngày 28/08/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 883/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 28 tháng 8 năm 2019, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 392/2019/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2019 về việc "Tranh chấp ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 248/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2019 giữa:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh X, sinh năm: 1972 (Vắng mặt – Có đơn xin giải quyết vắng mặt);

Đa chỉ: ấp 1, xã X, huyện BC, Thành phố H.

2. Bị đơn: Ông Tô Văn A, sinh năm: 1971 (Vắng mặt – Có đơn xin giải quyết vắng mặt).

Đa chỉ: ấp 1, xã X, huyện BC, Thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, trong quá trình giải quyết vụ án n guyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh X trình bày:

Bà và ông Tô Văn A sống chung từ năm 2007, do hai người tự tìm hiểu. Hai người không có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Thời gian đầu chung sống hai người rất hạnh phúc. Sau đó, hai người bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do ông A không có trách nhiệm với gia đình, hay ghen tuông vô cớ và thường xuyên xúc phạm bà. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông A.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Tô Văn A trình bày:

Ông sống chung với bà Nguyễn Thị Thanh X từ năm 2007, do hai người tự tìm hiểu, hai người không tổ chức đám cưới. Đến năm 2013, hai người có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Vợ chồng ông sống rất hạnh phúc. Trong cuộc sống vợ chồng, hai người có thường xuyên cãi nhau nhưng chỉ là những mâu thuẫn nhỏ nhặt. Sau đó, hai người hòa giải được với nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn cãi nhau do bất đồng quan điểm về công việc làm ăn và cách sống mỗi người có sự khác biệt. Ông vẫn rất còn yêu thương vợ ông. Vợ chồng không có sống ly thân với nhau. Nay bà Nguyễn Thị Thanh X yêu cầu ly hôn với ông thì ông không đồng ý. Ông yêu cầu Tòa án giải quyết đoàn tụ.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt do có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Đi diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bà Nguyễn Thị Thanh X yêu cầu được ly hôn với ông Tô Văn A đây là tranh chấp về ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Bị đơn cư trú tại địa bàn huyện Bình Chánh nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh.

Về sự vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn và bị đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Vì vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về các yêu cầu của đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào Giấy chứng nhận kết hôn số 213 do Ủy ban nhân dân phường Y, quận A, Thành phố H cấp ngày 21/11/2013, giữa bà Nguyễn Thị Thanh X và ông Tô Văn A là vợ chồng được pháp luật công nhận quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.

Theo lời trình bày của bà X thì đời sống chung vợ chồng của bà X và ông A phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên xung đột tranh cãi nhau do ông A không có trách nhiệm với gia đình nên bà yêu cầu được ly hôn với ông A. Ông A cũng thừa nhận đời sống chung của vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng về tiền bạc và quan điểm sống. Ông A không đồng ý ly hôn với bà X nhưng ông không đưa ra được giải pháp cụ thể nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng mà được bà X đồng ý. Mặt khác, vào năm 2017 bà X đã nộp đơn ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh nhưng sau đó bà đã suy nghĩ lại và cho ông A cơ hội nên bà đã rút đơn khởi kiện ly hôn. Nay, bà X tiếp tục yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Điều này chứng tỏ đời sống chung vợ chồng của bà X và ông A phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên xung đột, không quan tâm chia sẽ các vấn đề trong cuộc sống với nhau. Bà X và ông A tuy vẫn sống chung một nhà nhưng cả hai người đều không quan tâm, chia sẻ các vấn đề trong đời sống vợ chồng. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa bà X và ông A đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, hai bên đều không có thiện chí hàn gắn. Do đó, yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Thanh X là có cơ sở, phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Bà X và ông A đều xác định không có. Do vậy, Tòa án không đặt ra để giải quyết.

[3] Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thanh X phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 56 và Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Thanh X:

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Thanh X và ông Tô Văn A.

Giy chứng nhận kết hôn số 213 do Ủy ban nhân dân phường Y, quận A, Thành phố H cấp ngày 21/11/2013 không còn giá trị pháp lý.

1.2. Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Bà X và ông A xác định không có nên Tòa án không đặt ra để giải quyết.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thanh X phải chịu án phí sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số AA/2018/0025164 ngày 24 tháng 4 năm 2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà X đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được giao bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai tại địa phương.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

114
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 883/2019/HNGĐ-ST ngày 28/08/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:883/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về