Bản án 87/2020/HSST ngày 29/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

ÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 87/2020/HSST NGÀY 29/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 29 tháng 5 năm 2020 tại Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 57/HSST ngày 24 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

N.H.V.M; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1994; Nơi sinh: Thừa Thiên Huế; Hộ khẩu thường trú: Thôn 5, xã V.T, huyện P.V, tỉnh Thừa Thiên Huế; Chỗ ở trước ngày bị bắt: Như trên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 2/12; Con ông: H.V.T (chết); Con bà: N.T.H; Bị cáo có 04 anh chị em ruột; Vợ, con: Không có;

Tiền án:

- Năm 2013, bị Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 129/2013/HSST ngày 24/7/2013;

- Năm 2014, bị Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 299/2014/HSST ngày 28/11/2014;

Tiền sự:

- Năm 2016, bị Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chữa bệnh, thời hạn 24 tháng. Đến ngày 05/9/2018 chấp hành xong.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 05/11/2019 đến ngày 14/11/2019, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại:

1/ Ông N.V.C, sinh năm 1980 2/ Ông N.V.V, sinh năm 1984 3/ Ông N.P.L, sinh năm 2001 Cùng địa chỉ: 33/5D ấp H.L, xã B.Đ, huyện H.M, Thành phố Hồ Chí Minh.

4/ Ông N.V.T, sinh năm 2002 Địa chỉ: 132C tổ 62, phường T.M.T, Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01h00 ngày 02/11/2019 N.H.V.M cùng với tên Nhóc (chưa rõ lai lịch) sử dụng xe máy, biển số 54Y2-7810 rủ nhau đi trộm. Cả hai đi đến khu nhà trọ, thuộc xã Bà Điểm lấy trộm 01 xe đạp mini màu đen. Sau đó M điều khiển xe đạp này, còn Nhóc điều khiển xe 54Y2-7810, tiếp tục đi đến nhà số 33/5D ấp H.L, xã B.Đ, huyện H.M trộm cắp tài sản. M dùng tay cạy cửa sổ vào nhà rồi mở cửa chính cho Nhóc cùng vào tìm tài sản. Lúc này Nhóc điện thoại kêu thêm 02 người bạn (chưa rõ lai lịch) đến cùng tham gia trộm cắp tài sản. M lấy trộm 02 điện thoại di động (01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu xám và 01 điện thoại di động Samsung J2 màu vàng) của anh N.V.T cùng xe máy hiệu Airblade, biển số 50Y1-143.78 của anh N.V.C. Nhóc và 02 người bạn lấy trộm 03 điện thoại di động (01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 plus màu vàng 64gb và 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu đen của anh N.V.V và 01 điện thoại di động hiệu Iphone X màu trắng của anh N.P.L) cùng 02 xe máy (01 chiếc hiệu Vario, biển số 60H1- 138.70 của anh N.V.T và 01 chiếc hiệu Wave, biển số 50Y1-316.16 của anh NV.V) đẩy ra ngoài thì bị anh C phát hiện, tri hô nên điều khiển xe, biển số 50Y1-143.78 cùng với Nhóc và 02 người bạn của Nhóc điều khiển xe, biển số 60H1-138.70 cùng 05 điện thoại di động chạy thoát, để lại hiện trường chiếc xe đạp mini màu đen và xe máy 50Y1-316.16.

M lấy điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu xám đem bán cho 01 người thanh niên (không rõ lai lịch) ở quán cà phê 1477, số 14/2A ấp M.H 4, xã X.T.Đ, huyện H.M với giá 1.000.000 đồng chơi game, còn điện thoại di động hiệu Samsung J2 màu vàng đưa cho Nhóc. Sau đó M và Nhóc đem 02 xe trộm được đem bán cho đối tượng tên Ba Tàu (không rõ lai lịch) với giá 14.000.000 đồng, M lấy 5.000.000 đồng, còn Nhóc lấy 9.000.000 đồng.

Riêng Nhóc sau khi trộm cắp tài sản, đã đem xe máy 54Y2-7810 nhờ H.H.T đem gửi tại quán cà phê số G18 đường số 12, ấp M.H 4, xã X.T.Đ. Đến ngày 05/11/2019 M bị bắt khẩn cấp.

Tại Cơ quan Công an, N.H.V.M đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình như đã nêu trên.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và khẳng định hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Theo Bản kết luận định giá tài sản số 247/2019 ngày 07/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Hóc Môn kết luận định giá như sau (BL: 84):

- Xe gắn máy nhãn hiệu Honda Blade, biển số 50Y1-143.78 trị giá 27.000.000 đồng - Xe máy nhãn hiệu Honda Vario 150, biển số 60H1-13870 trị giá 45.000.000 đồng - Xe máy nhãn hiệu Honda Wave, biển số 50Y1-31616 trị giá 17.000.000 đồng - Điện thoại di động Iphone X 256GB màu trắng, trị giá 12.000.000 đồng - Điện thoại di động Iphone 6 Plus 16GB màu xám, trị giá 2.500.000 đồng - Điện thoại di động Sam sung J2 8GB màu vàng, trị giá 1.000.000 đồng - Điện thoại di động Iphone 6 Plus 64GB màu vàng, trị giá 4.000.000 đồng.

- Điện thoại di động Samsung J7 Pro màu đen, trị giá 2.500.000 đồng. Tổng cộng, số tiền: 111.000.000 đồng.

Trong quá trình điều tra bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng định giá và tại phiên tòa hôm nay bị cáo cũng không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng định giá nêu trên.

Vật chứng thu giữ:

- Xe máy, biển số 54Y2-7810. Qua xác minh xe có số khung: 33101146- MG110, số máy: 10348834-1P53FMH có biển số 51S3-4425 thuộc sở hữu của anh T.C.Đ, đã bán cho người khác nhưng không nhớ bán cho ai. Cơ quan điều tra đã đăng thông báo tìm chủ sở hữu.

- 01 xe đạp mini màu đen, hiệu Action. Qua rà soát không xác định địa điểm nơi trộm. Cơ quan điều tra đã đăng thông báo tìm chủ sở hữu.

- 01 quần jean dài màu xanh và 01 đôi giầy màu trắng, là trang phục của M khi thực hiện hành vi phạm tội.

- 01 USB trích từ camera ghi lại hình ảnh vụ việc.

Về dân sự: Anh N.P.L yêu cầu bồi thường số tiền 12.000.000 đồng; Anh N.V.T yêu cầu bồi thường số tiền 48.500.000 đồng; Anh N.V.C yêu cầu bồi thường số tiền 27.000.000 đồng; Anh N.V.V yêu cầu bồi thường số tiền 6.500.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 58/CT-VKS-HS ngày 24 tháng 3 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn đã truy tố bị cáo N.H.V.M phạm tội: “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 2, điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

Tuyên bố bị cáo N.H.V.M thực hiện đã phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm c khoản 2 điểm 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt từ 04 (Bốn) đến 05 (Năm) năm tù.

Về xử lý vật chứng:

- Xe máy, biển số 54Y2-7810. Qua xác minh xe có số khung: 33101146- MG110, số máy: 10348834-1P53FMH có biển số 51S3-4425 đề nghị đăng báo tìm chủ sở hữu xử lý theo quy định.

- Tịch thu tiêu hủy 01 quần jean dài màu xanh và 01 đôi giầy màu đen trắng, phần lót giày có chữ Bilun, biển số xe 54Y2-7810 là vật bị cáo sử dụng khi trộm cắp, không có giá trị nên tịch thu, tiêu hủy.

- Thu giữ lưu hồ sơ 01 USB trích từ camera ghi lại hình ảnh vụ việc.

- Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo bồi thường cho Anh N.P.L số tiền 12.000.000 đồng; Anh N.V.T số tiền 48.500.000 đồng; Anh N.V.C số tiền 27.000.000 đồng; Anh N.V.V số tiền 6.500.000 đồng.

- Về án phí: Đề nghị buộc bị cáo chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo tại phiên tòa trình bày lời nói sau cùng: Bị cáo không trình bày lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hóc Môn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo N.H.V.M khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Căn cứ hành vi của bị cáo và kết quả định giá có đủ cơ sở khẳng định:

Khoảng 01h00 ngày 02/11/2019 N.H.V.M đã có hành vi lén lút, bí mật cùng với tên Nhóc (chưa rõ lai lịch) sử dụng xe máy, biển số 54Y2-7810 rủ nhau đi trộm. Cả hai đi đến khu nhà trọ, thuộc xã Bà Điểm lấy trộm 01 xe đạp mini màu đen. Sau đó M điều khiển xe đạp này, còn Nhóc điều khiển xe 54Y2-7810, tiếp tục đi đến nhà số 33/5D ấp H.L, xã B.Đ, huyện H.M trộm cắp tài sản. dùng tay cạy cửa sổ vào nhà rồi mở cửa chính cho Nhóc cùng vào tìm tài sản. Lúc này Nhóc điện thoại kêu thêm 02 người bạn (chưa rõ lai lịch) đến cùng tham gia trộm cắp tài sản. M lấy trộm 02 điện thoại di động (01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu xám và 01 điện thoại di động Samsung J2 màu vàng) của anh N.V.T cùng xe máy hiệu Airblade, biển số 50Y1-143.78 của anh N.V.C. Nhóc và 02 người bạn lấy trộm 03 điện thoại di động (01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 plus màu vàng 64gb và 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu đen của anh N.V.V và 01 điện thoại di động hiệu Iphone X màu trắng của anh N.P.L) cùng 02 xe máy (01 chiếc hiệu Vario, biển số 60H1-138.70 của anh N.V.T và 01 chiếc hiệu Wave, biển số 50Y1- 316.16 của anh N.V.V) đẩy ra ngoài thì bị anh C phát hiện, tri hô nên M điều khiển xe, biển số 50Y1-143.78 cùng với Nhóc và 02 người bạn của Nhóc điều khiển xe, biển số 60H1-138.70 cùng 05 điện thoại di động chạy thoát, để lại hiện trường chiếc xe đạp mini màu đen và xe máy 50Y1-316.16.

[3] Lời khai của bị cáo, người bị hại, người làm chứng trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo, kết luận định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Theo Bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản Tố tụng hình sự - Phòng Tài Chính – Kế hoạch - Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn 247/2019 ngày 07/11/2019, tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 111.000.000 đồng.

Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận hành vi trên của bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Bị cáo đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản đã có hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản có tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 111.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây mất trật tự trị an trên địa bàn và thể hiện sự coi thường pháp luật của Bị cáo. Chính vì vậy Bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra.

Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì lười lao động, vẫn muốn có tiền chi tiêu cá nhân nên vẫn thực hiện. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với Bị cáo để giáo dục Bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[5] Về tình tiết tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của Bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về nhân thân: Ngày 24/7/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 129/2013/HSST; đã được xóa án tích; ngày 28/11/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 299/2014/HSST; đã được xóa án tích; Ngày 09/5/2018 bị cáo chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương sinh sống.

- Ngày 16/11/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chữa bệnh, thời hạn 24 tháng. Đến ngày 05/9/2018 chấp hành xong.

Việc đề nghị áp dụng hình phạt của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ nên HĐXX cần chấp nhận.

Ngoài hình phạt chính Bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, song xét Bị cáo không có việc làm, không có tài sản riêng có giá trị nên không có khả năng thi hành. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 biển số xe 54Y2-7810 có chủ sỡ hữu tên Đ.T.N.P, năm 2013 chị P đã bán chiếc xe trên nhưng không nhớ bán cho ai, do không có giá trị nên tịch thu, tiêu hủy.

- 01 Xe máy nhãn hiệu Wave, có số khung: 33101146-MG110, số máy:

10348834-1P53FMH, biển số 51S3-4425 thuộc sở hữu của anh T.C.Đ, đã bán cho người khác nhưng không nhớ bán cho ai. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn đã đăng báo truy tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa có người nào đến nhận. Hội đồng xét xử quyết định giao Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng để truy tìm chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe nêu trên. Nếu có người xuất trình đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh là chủ sở hữu hợp pháp thì trả lại xe cho họ. Trong trường hợp quá thời hạn 06 tháng mà không có chủ sở hữu nào đến nhận thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- 01 xe đạp mini màu xanh đen hiệu Action do M và Nhóc trộm ở khu vực xã Bà điểm, huyện Hóc Môn. Công an xã Bà điểm rà soát không xác định được địa điểm nơi trộm và đăng báo không tìm được bị hại. Hội đồng xét xử quyết định giao Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng để truy tìm chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe nêu trên. Nếu có người xuất trình đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh là chủ sở hữu hợp pháp thì trả lại xe cho họ. Trong trường hợp quá thời hạn 06 tháng mà không có chủ sở hữu nào đến nhận thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- 01 quần jean dài màu xanh và 01 đôi giầy màu đen trắng, phần lót giày có chữ Bilun là vật bị cáo sử dụng khi trộm cắp, không có giá trị nên tịch thu, tiêu hủy.

- 01 USB trích từ camera ghi lại hình ảnh vụ việc là tài liệu cần thu giữ lưu hồ sơ.

[6] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

- Bị hại ông N.P.L bị mất tài sản là 01 điện thoại Iphone X màu trắng do hành vi của bị cáo gây ra, hiện tài sản trên không thu hồi được ông L vắng mặt tài liệu hồ sơ thể hiện ông L yêu cầu bị cáo bồi thường theo giá trị định giá là 12.000.000 đồng.

- Bị hại ông N.V.T bị mất tài sản là 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu xám và 01 điện thoại di động Samsung J2 màu vàng, 01 chiếc xe máy hiệu Vario, biển số 60H1-138.70 do hành vi của bị cáo gây ra, hiện tài sản trên không thu hồi được ông L vắng mặt tài liệu hồ sơ thể hiện yêu cầu bị cáo bồi thường theo giá trị định giá là 48.500.000 đồng;

- Bị hại ông N.V.C bị mất tài sản là 01 xe máy hiệu Airblade, biển số 50Y1- 143.78 do hành vi của bị cáo gây ra, hiện tài sản trên không thu hồi được ông L vắng mặt tài liệu hồ sơ thể hiện yêu cầu bị cáo bồi thường theo giá trị định giá là 27.000.000 đồng;

- Bị hại ông N.V.V bị mất tài sản là 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu vàng 64G và 01 điện thoại di động Samsung J7 màu đen do hành vi của bị cáo gây ra, hiện tài sản trên không thu hồi được ông L vắng mặt tài liệu hồ sơ thể hiện yêu cầu bị cáo bồi thường theo giá trị định giá là 6.500.000 đồng.

Xét đề nghị của các bị hại là có căn cứ và phù hợp đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Các vấn đề khác: Đối với các đối tượng tên Nhóc và bạn của nhóc, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

[8] Về nghĩa vụ chịu án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm c khoản 2 điều 173; điểm s khoản 1 điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015;

Tuyên bố bị cáo N.H.V.M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo N.H.V.M 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/11/2019.

[2] Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; - Tịch thu, tiêu hủy 01 quần jean dài màu xanh và 01 đôi giầy màu đen trắng, phần lót giày có chữ Bilun, biển số xe 54Y2-7810.

- Đối với 01 Xe máy nhãn hiệu Wave, có số khung: 33101146-MG110, số máy: 10348834-1P53FMH, biển số 51S3-4425 giao Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng để truy tìm chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe nêu trên. Nếu có người xuất trình đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh là chủ sở hữu hợp pháp thì trả lại xe cho họ.

Trong trường hợp quá thời hạn 06 tháng mà không có chủ sở hữu nào đến nhận thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 xe đạp mini màu xanh đen hiệu Action giao Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng để truy tìm chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe nêu trên. Nếu có người xuất trình đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh là chủ sở hữu hợp pháp thì trả lại xe cho họ. Trong trường hợp quá thời hạn 06 tháng mà không có chủ sở hữu nào đến nhận thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/3/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh).

- Lưu hồ sơ 01 USB trích từ camera ghi lại hình ảnh vụ việc.

[3] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015;

Buộc bị cáo phải bồi thường cho ông N.P.L số tiền là 12.000.000 đồng, ông N.V.T số tiền là 48.500.000 đồng, ông N.V.C số tiền 27.000.000 đồng, ông N.V.V số tiền 6.500.000 đồng.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thi hành án, thì phải chịu lãi đối với số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự, tương ứng với thời gian chậm thi hành án tại thời điểm thanh toán.

[4] Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo N.H.V.M phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo N.H.V.M phải chịu 5.500.000 đồng.

Thi hành tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

[5] Căn cứ Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo. Riêng bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 87/2020/HSST ngày 29/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:87/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về