Bản án 79/2018/HN-ST ngày 17/09/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 79/2018/HN-ST NGÀY 17/09/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 17 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ tiến hành xét xử công khai vụ án hôn nhân và gia đình đã thụ lý số: 09/2018/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2018 về việc: “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 851/2018/QĐST-HN ngày 06 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn : Ông Ngô Xuân S sinh năm 1974 (có mặt)

Địa chỉ: 403 T, phường A, quận B, TP. Cần Thơ.

* Bị đơn: Bà Đặng Thị P sinh năm 1975 (vắng mặt)

Địa chỉ: 31 M, phường X, quận N, TP. Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo Đơn khởi kiện ngày 22/12/2017 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Ngô Xuân S trình bày: Giữa ông và bà Đặng Thị P tự nguyện tiến đến hôn nhân năm 2000, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Cái Khế, quận Ninh Kiều, Tp Cần Thơ. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc nhưng sau đó ông bà phát sinh mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân. Nguyên nhân mâu thuẫn là do cuộc sống vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên tranh cãi, đã sống ly thân được 03 năm. Ông xác định tình cảm vợ chồng không còn hạnh phúc nên hiện tại ông bà không còn sốngchung với nhau. Ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Đặng Thị P.

- Về con chung: Trong thời gian chung sống ông và bà Đặng Thị P có 03 con chung tên Ngô Thảo T (nữ), sinh ngày 01/11/2001, Ngô Xuân S (nam), sinh ngày 27/6/2006 và Ngô Xuân K (nam), sinh ngày 08/4/2011. Khi ly hôn ông thống nhất giao 03 con chung cho bà Phương trực tiếp nuôi dưỡng, ông sẽ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 01 triệu đồng mỗi cháu.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Không có vì vợ chồng ông đã tự thỏa thuận giải quyết xong.

* Bị đơn bà Đặng Thị P: Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng, triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên không thể tiến hành hòa giải được. Do đó, Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn bà Đặng Thị P vắng mặt tại phiên tòa nên không thể hiện ý kiến đối với vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về quan hệ pháp luật bên tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bà Đặng Thị P. Giữa ông Ngô Xuân S và bà Đặng Thị P chung sống với nhau có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên xem là hôn nhân hợp pháp. Bị đơn có nơi cư trú thuộc địa bàn quận Ninh Kiều, TP.Cần Thơ. Bà Phương và ông Sơn chung sống với nhau không hạnh phúc, ông Ngô Xuân S có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bà Đặng Thị P nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp ly hôn. Tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận Ninh Kiều theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

* Về thủ tục tố tụng:

Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ bị đơn bà Đặng Thị P tham gia phiên tòa hợp lệ nhưng bà đều vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

* Về nội dung vụ án:

- Về yêu cầu ly hôn của nguyên đơn: Quá trình giải quyết vụ án ông Sơn trình bày sau khi đăng ký kết hôn, ông và bà Phương chung sống với nhau thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, cuộc sống không hợp nhau. Sau đó ông và bà Phương đã ly thân, hiện thấy mâu thuẩn đã trầm trọng nên ông yêu cầu được ly hôn với bà Phương.

Hội đồng xét xử xét thấy: Theo quy định tại Điều 17 và Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình; Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình” nhưng theo lời trình bày của ông Sơn thì từ khi vợ chồng không sống chung tới nay, ông không còn tình cảm với bà Phương. Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ đối với bà Phương nhằm hòa giải, tạo điều kiện để ông bà hàn gắn tình cảm với nhau nhưng bà Phương vẫn vắng mặt không lý do.

Xét trên thực tế ông Sơn và bà Phương đã sống ly thân. Nhận thấy, tình trạng vợ chồng giữa bà Phương và ông Sơn đã rạn nứt, hôn nhân đã chấm dứt trên thực tế; đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nếu tiếp tục cũng không đem lại hạnh phúc cho bà Phương và ông Sơn. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn ông Ngô Xuân S.

- Về con chung: Ông Sơn với bà Phương chung sống có 03 con chung tên Ngô Thảo T (nữ), sinh ngày 01/11/2001, Ngô Xuân S (nam), sinh ngày 27/6/2006 và Ngô Xuân K (nam), sinh ngày 08/4/2011, ngoài ra không còn con chung nào khác.

Hội đồng xét xử thấy: Qua lời trình bày của ông S thấy rằng 03 cháu Ngô Thảo Trang (nữ), sinh ngày 01/11/2001, Ngô Xuân Sang (nam), sinh ngày 27/6/2006 và Ngô Xuân K (nam), sinh ngày 08/4/2011 đang sống cùng bà P, ông S cũng thống nhất giao 03 con chung cho bà P trực tiếp nuôi dưỡng, nhận thấy đây là sự tự nguyện của ông Sơn, và bà P vắng mặt không có ý kiến phản đối nên HĐXX ghi nhận bà P sẽ là người trực tiếp nuôi dưỡng 03 cháu Ngô Thảo T (nữ), sinh ngày 01/11/2001, Ngô Xuân S (nam), sinh ngày 27/6/2006 và Ngô Xuân K (nam), sinh ngày 08/4/2011 đến khi trưởng thành.

Song, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái (con chung) là thiêng liêng nên người không trực tiếp nuôi con (ông Sơn) có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng: Ông Sơn tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi trưởng thành, nhận thấy sự tự nguyện này là phù hợp với việc tạo điều kiện chăm sóc con chung của bà Phương và quyền lợi cho các cháu nên ghi nhận.

Về nợ chung: Do vụ án xét xử vắng mặt bị đơn nên chỉ ghi nhận ý kiến của nguyên đơn về việc không có tài sản chung và không có nợ chung. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

Về tài sản chung: Ông S trình bày đã tự thỏa thuận với bà Phương nên không yêu cầu tòa án giải quyết nên HĐXX ghi nhận.

* Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2017/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Nguyên đơn bà Ngô Xuân S phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 92, khoản 4 Điều 147, Khoản 1 Điều 207, điểm b Khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Ngô Xuân S.

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Ngô Xuân S được ly hôn với bà Đặng Thị P.

- Về con chung: Giao 03 con chung tên Ngô Thảo T (nữ), sinh ngày 01/11/2001, Ngô Xuân S (nam), sinh ngày 27/6/2006 và Ngô Xuân K (nam), sinh ngày 08/4/2011 cho bà Đặng Thị P trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Ông Sơn cấp dưỡng nuôi 03 con chung mỗi tháng 03 triệu đồng (01 triệu đồng/01 cháu) cho đến khi 03 con chung tròn 18 tuổi.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông Ngô Xuân S, không ai được quyền ngăn cản.

- Về nợ chung: Ông Ngô Xuân S cho rằng không có, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ kiện khác.

- Về tài sản chung: Ông S trình bày đã tự thỏa thuận với bà P, không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: ông Ngô Xuân S phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng, chuyển tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 004753 ngày 29/12/2017 của Chi Cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ thành án phí, ông Sơn phải nộp thêm số tiền 300.000 đòng tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, Tp Cần Thơ.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết) để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2018/HN-ST ngày 17/09/2018 về ly hôn

Số hiệu:79/2018/HN-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về