Bản án 77/2018/HS-ST ngày 26/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 77/2018/HS-ST NGÀY 26/04/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 76/2018/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:78/2018/QĐXXST - HS ngày 12 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:

Hoàng Thị T, sinh năm 1993 tại huyện VY, tỉnh YB.

Nơi cư trú: Thôn 2, xã PDH, huyện VY, tỉnh YB.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hoàng Văn Đ, sinh năm 1967 và bà Hoàng Thị T1, sinh năm 1969; Gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ ba; Chồng là Nguyễn Văn H, sinh năm 1992; Con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 05/01/2018 chuyển tạm giam ngày 14/01/2018 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh BN, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hoàng Thị T là đối  tượng  sử dụng ma túy. Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 05/01/2018, khi T đang ở quầy thu ngân quán Karaoke 69 ở thôn GL, xã PL, huyện QV, tỉnh BN thì có người thanh niên tên là C ở PY (T không biết rõ họ tên, địa chỉ cụ thể của C là gì, ở đâu) điện thoại cho nói: “Có hàng trắng không, lấy cho anh bốn trăm nghìn đồng” (tức lấy 400.000đ tiền ma túy), T đồng ý và điện thoại cho một ngườithanh niên tên T2 (T không biết rõ họ tên, năm sinh, địa chỉ cụ thể của T2 là gì, ở đâu) là bạn T quen biết ngoài xã hội. T hỏi T2 “Anh có hàng trắng không, em lấy hộ cho bạn em bốn trăm”, T2 trả lời: “Có, em xuống đây anh đưa cho”. Sau đó T đi bộ ra ngoài bắt một chiếc xe taxi màu trắng (T không nhớ hãng xe taxi đó là gì, biển kiểm soát xe là bao nhiêu) bảo chở T xuống thị trấn PM, huyện QV. Trên đường đi T gọi điện thoại cho T2 để hỏi đường thì T2 bảo T đến cổng chợ thị trấn PM. Khi đi đến cổng chợ PM, T bảo người lái xe taxi đỗ xe ở ngoài cổng chợ chờ còn T đi bộ vào bên trong chợ được khoảng 05m thì nhìn thấy T2 đang đứng ở trước cửa quán có treo biển gội đầu (T không nhớ rõ tên quán gội đầu đó là gì). Sau đó, T2 dẫn T vào bên trong quán gội đầu và khép cửa quán lại. Lúc này bên trong quán gội đầu không có người, T2 đưa cho T một gói giấy bạc màu trắng (T hiểu bên trong gói giấy bạc đó là ma túy), T cầm gói giấy bạc trên và đút vào bên trong áo ngực bên trái đang mặc và đưa cho T2 400.000đ. T2 cầm tiền và lái xe môtô đi đâu T không rõ, còn T đi bộ ra phía ngoài cổng chợ nơi xe taxi đang chờ thì bị lực lượng công an bắt quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng theo đúng quy định của pháp luật.

Vật chứng thu giữ: Thu bên trong áo ngực bên trái  T đang mặc 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có 01 túi nilon màu trắng chứa chất tinh thể màu trắng; thu 01 điện thoại di động Nokia màu xanh dương đã qua sử dụng của T.

Tại Kết luận giám định số 148/KLGĐMT-PC54 ngày 05/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh BN kết luận: Chất tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông màu trắng có khối lượng 0,7379 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV, Hoàng Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 41/CT-VKSQV ngày 25/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện QV đã truy tố Hoàng Thị T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Hoàng Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện QV đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện QV thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Thị T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt: Hoàng Thị T từ 18đến 24 tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày 05/01/2018. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu huỷ mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh BN.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Nokia 105 có vỏ màu xanh, bàn phím màu đen đã qua sử dụng của T.

Bị cáo Hoàng Thị T nhận tội, không có ý kiến gì và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận tội của bị cáo Hoàng Thị T tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với thời gian, địa điểm, tang vật thu được tại hiện trường, lời khai của những người làm chứng cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 14 giờ 10 phút, ngày 05/01/2018, tại khu vực chợ PM thuộc khu 1, thị trấn PM, huyện QV, tỉnh BN; Hoàng Thị T đã có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng là 0,7379 gam ma túy; Loại ma túy:   Chất Methamphetamine thì bị lực lượng công an phát hiện và bắt quả tang thu giữ toàn bộ tang vật, niêm phong theo quy định.

Như vậy, thấy có đủ cơ sở kết luận hành vi của Hoàng Thị T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội,đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội. Tệ nạn ma tuý làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước; việc đấu tranh với các tội phạm về ma tuý hiện nay là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để bài trừ tệ nạn này. Nhưng bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật, vì thoả mãn nhu cầu lợi ích cho bản thân mà bị cáo đi vào con đường phạm tội. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay làm gia tăng tệ nạn ma tuý trên địa bàn huyện QV. Chính vì vậy phải đưa ra xét xử bị cáo kịp thời và có hình phạt nghiêm khắc để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội.

Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu; tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Do vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam được trừ đi thời gian chấp hành hình phạt tù theo quy định của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính cần phạt bị cáo một khoản tiền sung công quỹ Nhà nước mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, điều kiện gia đình kinh tế khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với người đàn ông tên là T2 đã bán ma túy cho T, T không biết họ tên, địa chỉ cụ thể ở đâu. Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV chưa xác minh làm rõ được, nên tách ra tiếp tục điều tra xác minh, khi nào làm rõ được sẽ đề nghị xử lý sau là phù hợp.

Đối với người thanh niên khai tên là C, sinh năm 1994 ở PY là người nhờ T đi mua cho ma túy, T không biết họ tên địa chỉ cụ thể ở đâu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV chưa xác minh làm rõ được, nên tách ra tiếp tục điều tra xác minh, khi nào làm rõ được sẽ đề nghị xử lý sau là phù hợp.

Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu huỷ mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh BN.

Đối với 01 điện thoại di động Nokia 105 có vỏ màu xanh, bàn phím màu đen đã qua sử dụng của T, đây là công cụ dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Thị T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 136, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án xử phạt:

Hoàng Thị T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/01/2018. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu huỷ mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh BN. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Nokia 105 có vỏ màu xanh, bàn phím màu đen đã qua sử dụng của T. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/3/2018 giữa Công an huyện QV với Chi cục Thi hành án dân sự huyện QV).

Về án phí: Buộc bị cáo Hoàng Thị T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 77/2018/HS-ST ngày 26/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:77/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về