Bản án 76/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THƯỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 76/2020/HS-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thường Tín xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 76/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Cù Văn K, sinh năm 1956 tại Hải Phòng; trú tại thôn Đỗ Xá, xã Vạn Điểm, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội; Quốc tịch Việt Nam; Dân tộc Kinh; Tôn giáo không; Trình độ văn hóa lớp 07; Nghề nghiệp lao động tự do; Con ông Cù Văn Sang và bà Nguyễn Thị Tẽm; Vợ là Nguyễn Thị V, sinh năm 1956; Có 04 con, lớn sinh năm1980, nhỏ sinh năm 1986; Tiền án, tiền sự không; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/5/2020 đến nay (Có mặt).

2. Nguyễn Văn K, sinh năm 1974 tại Hà Nam; Trú tại Tổ dân phố Đông Hải, phường Duy Hải, thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam; Quốc tịch Việt Nam; Dân tộc Kinh; Tôn giáo không; Trình độ văn hóa lớp 07; Nghề nghiệp lao động tự do; Con ông Nguyễn Văn Đông và bà Đàm Thị Đầm; Vợ là Nguyễn Thị X, sinh năm 1975; Có 02 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2002; Tiền án, tiền sự không; Đặc điểm khác về nhân thân: Ngày 15/9/1995, Công an huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây xử phạt 100.000 đồng về hành vi Gây rối trật tự công cộng; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/5/2020 đến nay (Có mặt).

3. Nguyễn Văn Z, sinh năm 1976 tại Hà Nội; trú tại thôn Đặng Xá, xã Vạn Điểm, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội; Quốc tịch Việt Nam; Dân tộc Kinh; Tôn giáo không; Trình độ văn hóa lớp 3; Nghề nghiệp lao động tự do; Con ông Nguyễn Văn Dự và bà Phạm Thị Bích; Vợ là Bùi Thị Khích, sinh năm 1978; Có 3 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2005; Tiền án, tiền sự không; Đặc điểm khác về nhân thân: Năm 2012 bị UBND huyện Thường Tín đưa đi cai nghiện bắt buộc; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/5/2020 đến nay (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Nguyễn Thị X, sinh năm 1975; Địa chỉ Tổ dân phố Đông Hải, phường Duy Hải, thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam (Có mặt).

2. Anh Cù Xuân TX, sinh năm 1980; Địa chỉ thôn Đỗ Xá, xã Vạn Điểm, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội (Có mặt).

3. Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1956; Địa chỉ thôn Đỗ Xá, xã Vạn Điểm, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 25/05/2020, Cù Văn K đến khu vực cống chui ở đường gom cao tốc thuộc địa phận thôn Khôn Thôn, xã Minh K, huyện Thường Tín, Hà Nội mua của một người phụ nữ không quen biết 01 gói ma túy heroin bên ngoài bọc giấy với giá 4.000.000 đồng.

K về nhà chia gói ma túy vừa mua được thành hai phần: một phần K chia thành 06 gói to, bên ngoài bọc bằng nilong màu đen, K dự định bán 500.000 đồng mỗi gói này. Phần ma túy còn lại, K chia thành 18 gói nhỏ, bên ngoài bọc bằng nilong màu xanh, K dự định bán 200.000 đồng mỗi gói. Sau khi chia xong, K cho 06 gói ma túy bọc nilong màu đen, 10 gói ma túy bọc nilong màu xanh vào 01 túi nilong to cất giữ tại ngăn ví màu đen, còn 08 gói ma túy bọc nilong màu xanh K cho vào 01 túi nilong to khác và để tất cả trên mặt bàn máy tính trong phòng ngủ của K để bán dần.

Khoảng 07 giờ 30 phút cùng ngày 25/5/2020, Nguyễn Văn K đi xe máy từ Hà Nam đến nhà Cù Văn K gọi cửa hỏi mua ma túy. K đã bán cho K 01 gói ma túy với giá 500.000 đồng. K đi đến ngã ba Quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn Lam Sơn, xã Minh K, huyện Thường Tín, Hà Nội thì bị Công an xã Minh K dừng xe kiểm tra, phát hiện, bắt giữ.

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 25/05/2020, Nguyễn Văn Z đến nhà Cù Văn K hỏi mua ma túy. K đã bán cho Z 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng. Khi đi đến đoạn đường gom cao tốc thuộc địa phận thôn Lam Sơn, xã Minh K, huyện Thường Tín, Hà Nội, Z bị lực lượng Công an xã Minh K kiểm tra, phát hiện, bắt giữ.

Khi khám xét nơi ở của Cù Văn K đã thu giữ được:

- 01 túi nilong diện 5x7cm, bên trong: có 05 gói nhỏ, bên ngoài bọc bằng nilong màu đen, bên trong mỗi gói có 01 lớp giấy, bên trong lớp giấy có chất bột màu trắng; và 10 gói nhỏ bọc bằng nilong màu xanh, bên trong có lớp giấy, bên trong lớp giấy có chất bột màu trắng, thu giữ được trong ngăn ví màu đen tại mặt bàn máy tính trong phòng ngủ của Cù Văn K, được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu K1.

- 01 túi nilong diện 5x7cm, bên trong: có 07 gói nhỏ, bên ngoài bọc bằng nilong màu xanh, bên trong mỗi gói có 01 lớp giấy, bên trong lớp giấy có chất bột màu trắng; thu giữ được tại mặt bàn máy tính trong phòng ngủ của Cù Văn K, được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu K2.

- Số tiền 5.000.000 đồng thu giữ trong ngăn ví màu đen tại mặt bàn máy tính trong phòng ngủ của K.

- Số tiền 300.000.000 đồng thu giữ trong tủ quần áo trong phòng ngủ của K - 07 túi nilong màu đen và 01 túi nilong màu xanh thu giữ tại mặt bàn máy tính trong phòng ngủ của K.

Tại Kết luận giám định số 4166/C09-TT1, ngày 01/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội xác định về số ma túy thu tại nhà Cù Văn K như sau:

+ Chất bột màu trắng bên trong 05 gói giấy bên ngoài bọc nilong màu đen và 10 gói giấy bên ngoài bọc nilong màu xanh đều là ma túy loại heroin, tổng khối lượng: 2,503gam.

+ Chất bột màu trắng bên trong 07 gói giấy bên ngoài bọc nilong màu xanh đều là ma túy loại heroin, tổng khối lượng 0,691gam.

Tại Kết luận giám định số 4164/C09-TT1, ngày 01/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội xác định về số ma túy thu của Nguyễn Văn K nưh sau: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bên ngoài bọc nilong màu đen là ma túy loại heroin, khối lượng 0,231gam.

Tại Kết luận giám định số 4165/C09-TT1, ngày 01/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội xác định về số ma túy thu của Nguyễn Văn Z như sau: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bên ngoài bọc nilong màu xanh thu là ma túy loại heroin, khối lượng 0,162gam.

Tại bản cáo trạng số 76/CT-VKS ngày 10 tháng 9 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thường Tín đã truy tố Cù Văn K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; truy tố Nguyễn Văn K và Nguyễn Văn Z về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị: Đối với Cù Văn K: áp dụng điểm b khoản 2, Điều 251; điểm s, v khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt từ 6 -7 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, phạt bổ sung bằng tiền từ 5 – 7 triệu đồng.

Đối với Nguyễn Văn K: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt từ 18 – 21 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đối với Nguyễn Văn Z: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt từ 15 – 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ; Tịch thu số tiền 700.000 đồng; Tạm giữ số tiền 4.300.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều khai nhận đã thực hiện hành vi như nội dung nêu trên. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Ngày 25/05/2020, Cù Văn K đã mua 4.000.000 đồng ma túy loại heroin mang về nhà chia thành các gói nhỏ với mục đích bán lại để kiếm lời. Cùng trong ngày, K đã một lần bán cho Nguyễn Văn K 01 gói ma túy 0,231gram heroin với giá 500.000 đồng và một lần bán cho Nguyễn Văn Z 01 gói ma tuý 0,162 gram heroin với giá 200.000 đồng. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của K đã thu giữ được 22 gói ma túy heroin có tổng khối lượng 3,194 gram.

Hành vi của Cù Văn K đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết tăng nặng định khung hình phạt “Phạm tội nhiều lần” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự;

Hành vi của Nguyễn Văn K và Nguyễn Văn Z đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[2] Hành vi của các bị cáo có tính chất rất nghiêm trọng, xâm phạm chế độ độc quyền quản lí chất ma túy của Nhà nước, làm lan truyền tệ nạn ma túy trong xã hội, gây mất an ninh trật tự địa X, cần áp dụng hình phạt tù với thời gian cách ly xã hội đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành người tốt và răn đe những người khác không phạm tội.

[3] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng nhận thấy các bị cáo đã khai báo thành khẩn và ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự được áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Đối với bị cáo Cù Văn K là người cao tuổi có nhân thân tốt, đã tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước, được tặng thưởng K chương chiến sỹ vẻ vang do đó được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự và có thể cho bị cáo được hưởng mức án thấp dưới mức khởi điểm của khung hình phạt. Đối với Nguyễn Văn K, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, thuộc gia đình có công, mẹ đẻ được Hội đồng Chính phủ tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhì, là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự được áp dụng.

[4 Đối với số tiền 700.000 đồng Cù Văn K do bán ma túy mà có, cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với số tiền 700.000 đồng Cù Văn K do bán ma túy mà có, cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với số tiền 4.300.000 đồng của bà Đỗ Thị V không liên quan đến tội phạm được trả lại bà V.

Cơ quan điều tra đã trả lại 01 xe mô tô Honda Wave màu trắng, BKS: 90D1- 07996, số máy: 0103196, số khung: 103149 cho bà Nguyễn Thị X; trả lại số tiền 300.000.000 đồng cho anh anh Cù Xuân TX.

Đối với số ma túy đã thu giữ, cùng 07 túi nilong màu đen và 01 túi nilong màu xanh, 01 túi đeo màu đen cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn Văn Z phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Cù Văn K được miễn án phí do là người cao tuổi.

[7] Do bị cáo Cù Văn K là người cao tuổi lại không có nghề nghiệp do đó không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[8] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện các hành vi, ra các quyết định tố tụng hợp pháp theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 2 điều 251; điểm s, v khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 54 của Bộ luật hình sự Tuyên bố bị cáo Cù Văn K phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy Xử phạt bị cáo Cù Văn K 06 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 26/5/2020.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/5/2020.

3. Căn cứ điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Z phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Z 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/5/2020.

4. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 04 phong bì bên trong có chứa ma túy, 07 túi nilon đen, 01 túi nilon xanh, 01 túi đeo màu đen đã qua sử dụng (Tình trạng vật chứng như Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15 tháng 9 năm 2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thường Tín).

Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 700.000 đồng do Cù Văn K bán ma túy mà có.

Trả lại bà Đỗ Thị V số tiền 4.300.000 đồng.

(Số tiền này hiện trong tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thường Tín tại Kho bạc Nhà nước huyện Thường Tín theo Ủy nhiệm chi số 54 ngày 11/9/2020)

5. Căn cứ Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lí và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn Văn Z phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm cho Cù Văn K.

6. Các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:76/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thường Tín - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về