Bản án 75/2021/HS-ST ngày 26/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 75/2021/HS-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 71/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Long H. Tên gọi khác: Không. Sinh năm: 1993, tại tỉnh S. Giới tính: Nam. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. HKTT: ấp P 1, xã S, huyện L, tỉnh Sóc Trăng. Học vấn: 12/12. Nghề nghiệp: Làm thuê. Con ông: Nguyễn Văn B, sinh năm: 1967 và bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1967, cùng trú tại: ấp P 1, xã S, huyện L, tỉnh Sóc Trăng. Gia đình có 04 anh chị em ruột, lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ nhất là bị cáo. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt ngày 03/12/2020. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an Thanh phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

1. Ông Cao L, sinh năm: 1965, ĐKHKTT: Tổ 17 đường A, Phường D, thành phố Đ, Tỉnh Lâm Đồng. Có mặt tại phiên tòa.

2. Bà Đỗ Thị Kim C, sinh năm: 1969, ĐKHKTT: Tổ 2, thôn Đ, xã Xu, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong Hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Long H là đối tượng không có việc làm ổn định nên H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài. Từ ngày 26/10/2020 đến ngày 03/12/2020, Nguyễn Long H, đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Lạt, cụ thể như sau:

Lần1: Vào khoảng 10 giờ ngày 26/10/2020, Nguyễn Long H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Future, màu đỏ, biển số: 83P3-51661 đến khu vực đường đường A, Phường D, thành phố Đ để tìm kiếm tài sản trộm cắp. Khi đi đến nhà ông Cao L đường A, Phường D, thành phố Đ, H thấy nhà khóa cửa ngoài và không có người trong nhà nên H dựng xe ở lề đường rồi đi bộ vòng ra phía sau nhà thì phát hiện cửa sổ không đóng, H leo qua cửa sổ đột nhập vào trong nhà đi vào phòng ngủ thứ nhất từ hướng cửa sổ vào nhà. Tại đây, H lục soát trong tủ quần áo lấy trộm được số tiền 1.000.000 đồng rồi đi sang phòng ngủ thứ hai tiếp tục lục soát trong tủ quần áo lấy trộm được một con heo đất. Lúc này, H phát hiện trong tủ quần áo có một ngăn tủ bị khóa nên H lấy 01 con dao dạng dao thái, dài khoảng 20 cm ở phòng bếp để cạy ngăn tủ bị khóa ra. Sau khi cạy được, H lục tìm tài sản lấy được 01 cặp nhẫn vàng, 01 lắc tay vàng trong ngăn tủ. Sau đó, H mang con heo đất ra giường ngủ trong phòng và dùng dao đập đếm số tiền trong heo đất được 3.200.000 đồng rồi tẩu thoát ra ngoài theo hướng đã đột nhập. Sau khi trộm cắp được số tài sản trên, H mang bán 01 cặp nhẫn vàng, 01 lắc tay vàng ở tiệm vàng (H không nhớ rõ địa chỉ) tại Phường A, thanh phố Đ được 10.000.000 đồng. Số tiền này cùng số tiền lấy trộm được, H đã tiêu xài hết. (BL: 27-36, 88-108) Bị hại: Ông Cao L, sinh năm: 1965, ĐKHKTT: Tổ 17 đường A, Phường D, thành phố Đ, Tỉnh Lâm Đồng, bị mất: 01 nhẫn vàng loại vàng 18k, trọng lượng 0,9584 chỉ, 01 nhẫn vàng loại vàng 18k, trọng lượng vàng 1, 0575 chỉ, 01 lắc tay vàng, loại vàng 980, trọng lượng 02 chỉ và số tiền 4.200.000 đồng. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đ kết luận: 02 nhẫn vàng và 01 lắc tay vàng trên có giá 17.450.000 đồng. Tổng trị giá tài sản Nguyễn Long H trộm cắp của ông Cao L là 21.650.000 đồng. Gia đình H đã bồi thường cho ông Lực số tiền 22.000.000 đồng nên ông L không có yêu cầu gì thêm. Ngày 27/02/2021 ông L có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Nguyễn Long H. (BL: 68-76) Lần 2: Vào khoảng 07 giờ ngày 03/12/2020, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Future, màu đỏ, BKS: 83P3-51661 đi xuống quán cà phê C - xã X, thành phố Đ, trong lúc ngồi uống cà phê, H thấy nhà bà Đỗ Thị Kim C ở bên đường đối diện quán cà phê có người đi ra khóa cổng nhà lại nên H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của nhà bà C. H ra khỏi quán cà phê, dựng xe ở lề đường rồi đi bộ vào trong sân nhà. H nhặt một cây gỗ dài khoảng 01 m đẩy tháo móc khóa cửa sổ đột nhập vào trong lục tìm tại tủ gỗ trong nhà lấy được 07 nhẫn vàng trơn, 01 lắc đeo tay bằng vàng, 01 sợi dây chuyền bằng vàng, 01 đôi bông hoa tai vàng. Sau đó, H tiếp tục đi vào phòng ngủ lục tìm tài sản lấy trộm được số tiền 1.250.000 đồng. Sau đó, H mang số tài sản trộm cắp được xuống thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng bán cho một tiệm vàng (không nhớ địa chỉ của tiệm vàng) 01 nhẫn vàng, 01 dây chuyền, 01 lắc vàng, 01 đôi bông tai được 34.000.000 đồng. Sau khi bán vàng xong, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Future, màu đỏ, BKS: 83P3-51661 về nhà tại E14 T, Phường G, thành phố Đ thì bị Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đ mời về làm việc. (BL: 78-87) Bị hại: Bà Đỗ Thị Kim C, sinh năm: 1969, ĐKHKTT: Tổ 2, thôn Đ, xã X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng, bị mất: 07 nhẫn vàng trơn, 01 lắc đeo tay bằng vàng, 01 sợi dây chuyền bằng vàng, 01 đôi bông tai vàng và số tiền 1.250.000 đồng.

Ngày 24/01/2021 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng có Kết luận giám định số 2210/GĐ-PC09 như sau:

- 01 (một) nhẫn bằng kim loại màu vàng, mặt trong nhẫn có chữ “9999- H.Khai-2.0”, tổng khối lượng: 7,5166g có chứa thành phần kim loại vàng(Au), hàm lượng vàng: 99,49%.

- 01 (một) nhẫn bằng kim loại màu vàng, mặt trong nhẫn có chữ “9999- H.Khai-1.0”, tổng khối lượng: 3,7530g có chứa thành phần kim loại vàng(Au), hàm lượng vàng: 99,68%.

- 01 (một) nhẫn bằng kim loại màu vàng, mặt trong nhẫn có chữ “9999- H.Khai-1.0”, tổng khối lượng: 3,7481g có chứa thành phần kim loại vàng(Au), hàm lượng vàng: 99,76%.

- 01 (một) nhẫn bằng kim loại màu vàng, mặt trong nhẫn có chữ “9999- H.Khai-1.0”, tổng khối lượng: 3,7428g có chứa thành phần kim loại vàng(Au), hàm lượng vàng: 99,75%.

- 01 (một) nhẫn bằng kim loại màu vàng, mặt trong nhẫn có chữ “9999- H.Khai-1.0”, tổng khối lượng: 3,7477g có chứa thành phần kim loại vàng(Au), hàm lượng vàng: 99,33%.

- 01 (một) nhẫn bằng kim loại màu vàng, mặt trong nhẫn có chữ “9999- Kim Ngọc-1.0”, tổng khối lượng: 3,7433g có chứa thành phần kim loại vàng(Au), hàm lượng vàng: 99,65%.

Ngày 03/02/2021 và ngày 25/02/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đ kết luận: 07 nhẫn vàng trơn, 01 lắc đeo tay bằng vàng, 01 sợi dây chuyền bằng vàng, 01 đôi bông tai vàng có giá là 70.236.000 đồng. Tổng trị giá tài sản Nguyễn Long H trộm cắp của bà Đỗ Thị Kim C là 71.486.000 đồng. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đà Lạt đã trả lại cho bà C 06 nhẫn bằng kim loại, màu vàng, bà C yêu cầu được bồi thường số tiền 34.500.000 đồng. Ngày 25/02/2021 bà C đã có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Nguyễn Long H.

Cáo trạng số 71/CT-VKS ngày 25/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà hôm nay, Bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản đúng như hành vi đã nêu tại bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố đối với bị cáo. Bị cáo không thắc mắc gì về nội dung bản cáo trạng.

Người bị hại; Ông Cao L, thống nhất nội dung cáo trạng của Viện Kiểm sát truy tố đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: ông không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không đề cập. Bà Đỗ Thị Kim C, thống nhất nội dung cáo trạng của Viện Kiểm sát truy tố đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự, bà yêu cầu bị cáo bồi thường số vàng bị cáo lấy trộm đã bán không thu hồi được thành tiền là 34.000.000đ và số tiền bị cáo lấy trộm 1.250.000đ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng trình bày luận tội đối với bị cáo: Đối chiếu với lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của người bị hại, tài liệu chứng cứ đã thu thập có trong Hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở xác định hành vi của bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng giữ nguyên quyết định truy tố đối phạm với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Long H, phạm tội “Trộm cắp tài sản” ; Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c, khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự, điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Long H, 03 năm 6 tháng đến 04 năm tù. Về trách nhiệm dân sự : Đề nghị xem xét yêu cầu của người bị hại theo quy định của pháp luật. Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, xem xét theo pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Cam đoan không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để sớm trở về hòa nhập cùng cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong Hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, những người bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội bị cáo: Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Long H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại, vật chứng đã thu giữ, kết quả định giá tài sản và các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong Hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở xác định: Vào ngày 26/10/2020, Nguyễn Long H đã trộm cắp 01 nhẫn vàng loại vàng 18k, trọng lượng 0,9584 chỉ, 01 nhẫn vàng loại vàng 18k, trọng lượng vàng 1, 0575 chỉ, 01 lắc tay vàng, loại vàng 980, trọng lượng 02 chỉ, tổng trị giá là 17.450.000 đồng và số tiền 4.200.000 đồng của ông Cao L tại Tổ 17 đường A, Phường D, thành phố Đ, Tỉnh Lâm Đồng, tổng trị giá tài sản là 21.650.000 đồng; ngày 03/12/2020, Nguyễn Long H trộm cắp 07 nhẫn vàng trơn, 01 lắc đeo tay bằng vàng, 01 sợi dây chuyền bằng vàng, 01 đôi bông tai vàng và số tiền 1.250.000 đồng của bà Đỗ Thị Kim C tại tổ 2, thôn Đ, xã X, thành phố Đ, Lâm Đồng, tổng trị giá tài sản là 71.486.000 đồng. Tổng giá trị tài sản Nguyễn Long H trộm cắp ở cả hai lần là 93.136.000 đồng . Hành vi của bị cáo thực hiện đã phạm tội “Trộm cắp tài sản’” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 173 của Bộ luật hình sự, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà L, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Điều 173: Tội trộm cắp tài sản 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

…” [3] Về nhân thân: bị cáo không có tiền án, tiền sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường, khắc phục một phần hậu quả và được các bị hại có đơn bãi nại, nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình được qui định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Về tình tiết tăng nặng, bị cáo phạm tội nhiều lần, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được qui định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt: Xét thấy Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rất rõ việc lợi dụng sự vắng mặt của chủ sở hữu khi vắng nhà , để lén lút cạy cửa vào nhà trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật hình sự, nhưng vì tư lợi vẫn cố ý thực hiện, và thực hiện nhiều lần là thể hiện ý thức xem thường pháp luật, việc bị phát hiện, bắt giữ là ngoài ý muốn của bị cáo. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương, nên cần xử phạt bị cáo hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện. Căn cứ các quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc nhân thân, tính chất mức độ hành vi của bị cáo thực hiện, nên áp dụng hình phạt tù có thời hạn để xử phạt bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng” theo tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên toà thể hiện bị cáo không có việc làm ổn định, không có thu nhập, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Vật chứng của vụ án sau khi cơ quan điều tra xử lý còn lại 01(một) xe Môtô hiệu Futrure màu đỏ. BKS:83P3-51661,số khung:7603GZ055879, số máy: JC76EO172065 và số tiền 35.250.000đồng. Xét thấy chiếc xe máy, bị cáo dùng làm phương tiện đi lại để thực hiện hành vi phạm tội, còn giá trị sử dụng nên tịch thu sung công quĩ. Đối với số tiền 35.250.000đồng, xét thấy đây là số tiền bị cáo bán vàng trộm cắp và số tiền trộm cắp của bà Đỗ Thị Kim C, do không thu được số vàng là tài sản bị trộm cắp, nên số tiền này cần trả cho người bị hại là bà Đỗ Thị Kim C.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bà Đỗ Thị Kim C, yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 34.000.000 đồng bán vàng và 1.250.000đ. Như đã nhận định tại phần vật chứng nêu trên, trả lại cho bà C số tiền 35.250.000đồng, nên không buộc bị cáo phải bồi thường tiếp cho bà C.

[9] Vấn đề khác: Bị cáo đang bị tạm giam nên căn cứ khoản 1 Điều 329 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Long H, phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng điểm c, khoản 2, Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51, điểm g khoản 1, Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Long H, 03 năm 6 tháng ( Ba năm 6 tháng) tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 03/12/2020.

3. Về Vật chứng:

-Tịch thu sung công quỹ 01(một) xe Môtô hiệu Ftrure màu đỏ. BKS:83P3-51661,số khung:7603GZ055879, số máy: JC76EO172065.

- Trả lại cho người bị hại là bà Đỗ Thị Kim C Số tiền 35.250.000đồng. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/3/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng và biên lai thu tiền số AA/20170001607 ngày 30/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/ BTVQH14 ngày 31/12/2016 của y ban thường vụ Quốc Hội quy định về việc áp dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Long H, phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người bi hại, có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2021/HS-ST ngày 26/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:75/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về