Bản án 74/2021/HS-ST ngày 29/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 74/2021/HS-ST NGÀY 29/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 77/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2021/QĐXXST- HS ngày 18 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Lò Văn K, sinh 04/3/2002; tại: huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: bản M, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: lớp 09/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Lò Văn B và bà Quàng Thị P, sinh 1976; bị cáo chưa có vợ và con; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: chưa có án tích hoặc xử lý, xử phạt vi phạm hành chính khác; bị cáo bị bắt tạm giữ, giam từ ngày 30/12/2020 đến nay; có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn K: bà Cầm Kim Loan là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Lò Văn B, sinh 1979. Nơi cư trú: bản M, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; có mặt.

- Người làm chứng: Quàng Văn C, sinh 1994. Nơi cư trú: bản M, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21 giờ 20 phút, ngày 29/12/2020 Lò Văn K điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA Winner biển kiểm soát (BKS) 26L1-109.07 đi đến bản M, xã C, huyện M thì gặp Quàng Văn C, K hỏi Chiến “anh đi làm thuê về có tiền không, kiếm một ít chơi” C trả lời “mày kiếm được ở đâu”, K nói “em có một ít, anh đưa 100.000VNĐ đây”, C đồng ý và đưa cho K 01 tờ tiền mệnh giá 50.000VNĐ, 02 tờ tiền mệnh giá 20.000VNĐ, 01 tờ tiền mệnh giá 10.000VNĐ. Khoan nhận tiền rồi đưa cho C 01 gói giấy màu trắng thì bị Tổ công tác Công an xã C phát hiện, C đã giao nộp 01 gói giấy màu trắng, bên trong có chất bột màu trắng và khai nhận là ma tuý vừa mua của K. Thấy vậy, K giao nộp số tiền 100.000VNĐ vừa nhận của C. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 21 giờ 25 phút, thu giữ, niêm phong vật chứng, dẫn giải về Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M để điều tra theo thẩm quyền.

Trong quá trình điều tra Lò Văn K khai nhận về nguồn gốc ma tuý: khoảng 14 giờ ngày 29/12/2020 K gặp người tên Quàng Văn T, nơi cư trú: bản N, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La và mua được 01 gói Heroine với giá 100.000VNĐ, K đã sử dụng một phần còn lại cất giữ đến 21 giờ 20 phút cùng ngày, mang đi bán trái phép chất ma tuý cho C thì bị bắt; xe máy là tài sản của gia đình.

Ngày 30/12/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong cân tịnh tách bì, xác định khối lượng và lấy mẫu giám định tang vật thu giữ khi bắt quả tang Quàng Văn C và Lò Văn K, như sau: Chất bột màu trắng trong gói giấy màu trắng có khối lượng là 0,08 gam, lấy toàn bộ làm mẫu giám định ký hiệu KC. Còn lại 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu và 01 mảnh giấy màu trắng niêm phong lưu kho vật chứng theo quy định.

Ngày 30/12/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện thực hiện trưng cầu giám định số tiền 100.000VNĐ thu giữ của Lò Văn K.

Ngày 31/12/2020 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có Kêt luân giám định số 147, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu KC là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,08 gam. Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 0,08 gam; loại Heroine”.

Ngày 08/01/2020 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có kêt luân giám định số 190, Kết luận: Số tiền VNĐ gửi giám định là tiền thật.

Thực hiện điều tra, xác minh nhân thân của Quàng Văn C, xác định chưa có tiền án, tiền sự là người nghiện ma tuý cơ quan chức năng đã áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính. Đối với người tên T bán trái phép chất ma túy cho Khoan xác định được họ tên Quàng Văn T, nơi cư trú: bản N, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La, T khai được bán trái phép chất ma tuý; ngày 22/3/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã khởi tố bị can đối với Quàng Văn T nhưng T không có mặt tại nơi cư trú nên ngày 26/5/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã ra Quyết định số 01/ĐCSHS-KTMT, quyết định tách vụ án hình sự đối với hành vi mua bán trái phép chất ma tuý của Quàng Văn T.

Tiến hành xác minh nguồn gốc phương tiện đối với xe mô tô gắn BKS 26L1- 109.07 xác định không là vật chứng trong vụ án khác; anh Lò Văn B xác định: chiếc xe máy Lò Văn K, bị thu và tạm giữ là tài sản của gia đình, việc Khoan sử dụng khi phạm tội gia đình không biết, xin nhận lại chiếc xe.

Bản cáo trạng số 48/CT-VKS-ML ngày 15/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Lò Văn K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội với mục đích mua ma túy cất giữ để sử dụng và bán để kiếm lời thì bị bắt như cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M luận tội và tranh luận: đề nghị tuyến bố bị cáo Lò Văn K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lò Văn K từ 24 đến 30 tháng tù; không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu và tiêu hủy: 01 vỏ phong bì và 01 mảnh giấy màu trắng; tịch thu nộp ngân sách số tiền 100.000VNĐ; áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, miễn tiền án phí cho bị cáo. Trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Winner BKS 26L1-109.07 cho anh Lò Văn B.

Người bào chữa cho bị cáo K tranh luận: đồng ý với nội dung cáo trạng và lời khai bị cáo đã trình bày; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, hiểu biết về đời sống xã hội và pháp luật rất hạn chế, tuổi còn trẻ; sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo đã khai ra đồng phạm khác là Quàng Văn T là tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm nên đề nghị Hội đồng xét xử xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và cho bị cáo hưởng mức hình phạt thấp nhất để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở về với gia đình, xã hội; các nội dung khác nhất trí với đề nghị của Viện kiểm sát.

Bị cáo bổ sung bào chữa, tranh luận: bị cáo xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, xin được miễn án phí.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lò Văn B xin nhận lại xe mô tô nhãn hiệu HONDA Winner BKS 26L1-109.07 và không yêu cầu gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác đinh hành vi phạm tội: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung kết luận điều tra, cáo trạng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, chứng cứ, tài liệu đã được thu thập và phản ánh trong hồ sơ của vụ án, được thẩm tra, xác minh tại phiên toà, xác định: hồi 21 giờ 20 phút, ngày 29/12/2020 bị cáo Lò Văn K cất giữ trái phép Heroine rồi điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA Winner BKS 26L1-109.07 đi đến bản Mạ, xã C, huyện M thì gặp Quàng Văn Cn, K bán trái phép 01 gói Heroine cho C được số tiền 100.000VNĐ thì bị Tổ công tác Công an xã C phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại kết luận giám định số 147, ngày 31/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu KC là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,08 gam. Tổng khối lượng ma tuý ma túy thu giữ là 0,08 gam; loại Heroine”. Như vậy, Lò Văn K là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã cố ý trực tiếp thực hiện hành vi bán trái phép chất ma tuý (Heroine) cho Chiến để kiếm lời là xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý có đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lò Văn K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; tội phạm và hình phạt được quy định như sau: “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

[3] Về tính chất mức độ của hành vi: Bị cáo đã được Đảng và Nhà nước tuyên truyền, vận động, cấm sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý nhưng ý thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước, nhằm mục đích tư lợi cá nhân, kiếm lời dễ dàng bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; với lỗi cố ý trực tiếp bị cáo không chỉ cất giữ mà còn bán trái phép 0,08 gam chất ma túy cho người khác; tội phạm bị cáo thực hiện đã hoàn thành, hành vi phạm tội nghiêm trọng, không những làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, sự phát triển về thể chất của con người, suy giảm khả năng lao động do nghiện ma túy và kinh tế của gia đình bị cáo mà còn ảnh hưởng xấu về trật tự an toàn xã hội, trật tự trị an ở địa phương, là nguyên nhân gây ra những loại tội phạm, vi phạm pháp luật khác nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là đúng người, đúng tội; tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội quy kết bị cáo phạm tội và đề nghị phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sư: Bị cáo không phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sư, nhân thân: Bị cáo thành khẩn khai báo (khai đầy đủ, đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội), ăn năn hối cải (bị cáo luôn thể hiện sự cắn rứt, dày vò lương tâm, chấp hành tốt nội quy, quy định nhà tạm giữ, tạm giam, mong muốn sửa chữa, cải tạo mình thành người tốt); khi bị bắt quả tang bị cáo đã khai ra người bán trái phép chất ma tuý cho bị cáo là Tiên (Quàng Văn T đã bị khởi tố bị can) là tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án, phát hiện tội phạm. Do đó, xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo là người dân lao động, người dân tộc thiếu số, sống ở vùng sâu, xa, vùng ba, nhận thức pháp luật hạn chế, tuổi bị cáo còn trẻ, khối lượng ma tuý không lớn, cần xem xét giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy (phiếu xét nghiệm dương tính (+) với ma túy), không có khả năng tự cải tạo nên cần cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để đảm bảo giáo dục, cải tạo các bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội và cũng nhằm răn đe, phòng ngừa, giáo dục cho hành vi tương tự.

[6] Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, biên bản xác minh tài sản, lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định: không có tài sản giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về biện pháp ngăn chặn: áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 30/12/2020 được xem xét khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

[8] Đối với Quàng Văn C là người mua trái phép 0,08 gam Heroine của Khoan, đang cất giữ thì bị bắt quả tang, nhưng C chưa có tiền án, tiền sự, khối lượng ma tuý không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Cơ quan chức năng đã áp dụng biện xử phạt hành chính; đối với Quàng Văn T, Cơ quan điều tra đã khởi tố bị can và tách ra điều tra riêng nên không có cơ sở xử lý theo vụ án.

[9] Vật chứng của vụ án: Cơ quan chức năng đã lấy mẫu giám định 0,08 gam Heroine, không hoàn lại mẫu giám định nên không có cơ sở xử lý.

Hiện đang lưu kho vật chứng: 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; 01 mảnh giấy màu trắng là vật dụng bị cáo sử dụng cất giữ trái phép chất ma túy, vật chứng không có giá trị nên cần tịch thu và tiêu hủy, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với số tiền 100.000VNĐ là số tiền do Lò Văn K phạm tội mà có nên cần phải tịch thu nộp ngân sách Nhà nước, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Winner BKS 26L1-109.07 là tài sản thuộc quyền sở hữu của anh Lò Văn B; anh B không biết việc bị cáo sử dụng đi phạm tội nên trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp, căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] Về án phí: Tài liệu trong hồ sơ xác định bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng đặc biệt khó khăn, bị cáo và người bào chữa cho bị cáo xin miễn nộp tiền án phí; theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo thuộc trường hợp được miễn án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Lò Văn K 26 (Hai mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (30/12/2020); không phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu và tiêu hủy: 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; 01 mảnh giấy màu trắng của Lò Văn K.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 100.000VNĐ (Một trăm nghìn đồng) của Lò Văn K.

Trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Winner BKS 26L1-109.07 cho Lò Văn B. (Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/6/2021 giữa Công an huyện M và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M).

4. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo K.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (29/6/2021).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự;Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2021/HS-ST ngày 29/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:74/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về