Bản án 73/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về ly hôn

  TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN G, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 73/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 19/01/2021 tại trụ sở Tòa án Nhân dân quận G, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 1184/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 405/2020/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Tuyết N sinh năm 1985; Địa chỉ: Hà Huy G, phường Thạnh L, quận G, TP. Hồ Chí Minh. (Có mặt)

Bị đơn: Ông Mỵ Duy Q, sinh năm 1985; Địa chỉ:, Phường ML, quận G, TP. Hồ Chí Minh. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 17/09/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Tuyết N trình bày:

Bà N và ông Mỵ Duy Q kết hôn vào năm 2011, đăng ký kết hôn tại Ủy ban N dân thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Quá trình chung sống có hai con chung là Mỵ Duy Q, sinh ngày 03/05/2012 và Mỵ Duy Thiện N, sinh ngày 18/7/2016. Cuộc sống vợ chồng giữa bà và ông Q đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bà và ông Q không cùng quan điểm, vợ chồng không có sự thông cảm, chia sẻ lẫn nhau; mâu thuẫn giữa ông Q với gia đình bà. Nay bà nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên bà xin ly hôn với ông Q để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Có 02 con chung Mỵ Duy Q, sinh ngày 03/05/2012 và Mỵ Duy Thiện N, sinh ngày 18/7/2016, bà N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu ông Q phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

Bị đơn ông Mỵ Duy Q xác nhận việc kết hôn và có hai con chung như lời trình bày của bà N. Hiện nay tình cảm ông dành cho bà N không còn, nên ông đồng ý ly hôn với bà N.

Về con chung, ông Q yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết, nợ chung không có.

Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không thành. Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo pháp luật.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát Nhân dân quận G:

Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm xét xử thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên toà sơ thẩm.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 71 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Tuyết N ly hôn với ông Mỵ Duy Q. Về con chung giao trẻ Mỵ Duy Q và Mỵ Duy Thiện N cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng, Về Tài sản chung, nợ chung không yêu cầu giải quyết nên không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm Quyền của Tòa án:

Yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Tuyết N đối với ông Mỵ Duy Q là quan hệ tranh chấp về hôn Nhân gia đình. Ông Q đang cư trú tại quận G, do đó vụ án thuộc thẩm Quyền giải quyết của Tòa án Nhân dân quận G, theo quy định tại khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét yêu cầu của đương sự:

Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 08, quyển số 01/2011 do Ủy ban Nhân dân thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk cấp cho ông Q, bà N ngày 11/02/2011 đã xác định quan hệ hôn Nhân giữa bà N và ông Quyền là quan hệ hôn Nhân hợp pháp được điều chỉnh bởi Luật hôn Nhân gia đình năm 2014.

Bà N yêu cầu được ly hôn với ông Q và ông Q cũng đồng ý ly hôn. Tòa án đã tiến hành hòa giải, động viên các bên trở về đoàn tụ gia đình nhưng không thành. Tại phiên tòa hôm nay bà N và ông Q vẫn thống nhất việc giải quyết ly hôn. Xét thấy các bên đã thật sự tự nguyện ly hôn nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về con chung: Bà N và ông Q đều có yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy việc giao con cho ai nuôi là căn cứ vào Quyền lợi mọi mặt của con và xem xét đến nguyện vọng của con.

Tòa án đã tiến hành xác minh tại Hội liên hiệp phụ nữ phường 15, quận G về khả năng nuôi con giữa bà N và ông Q. Tuy nhiên, theo kết quả xác minh thì Hội liên hiệp phụ nữ phường không nắm rõ về khả năng nuôi con của bà N, ông Q.

Theo trình bày của bà N và xác nhận của ông Q thì hiện nay ông Q đã giao hai con chung cho bà N và bà N đang trực tiếp nuôi dưỡng. Bà N cũng chứng minh có thu nhập ổn định. Để đảm bảo ổn định nơi ở cho các trẻ, đồng thời cũng phù hợp với nguyện vọng của trẻ Mỵ Duy Q về việc muốn được ở với mẹ, Hội đồng xét xử xét cần giao hai con chung cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng. Hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho ông Quyền cho đến khi nào bà N có đơn yêu cầu.

Về tài sản chung: Bà N và ông Q không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung: Bà N và ông Q khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở.

Về án phí: Bà N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn Nhân gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn Nhân: Ghi nhận sự tự nguyện ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Tuyết N với ông Mỵ Duy Q. Bà Nguyễn Thị Tuyết N và ông Mỵ Duy Q thuận tình ly hôn. (Giấy chứng nhận kết hôn số 08, quyển số 01/2011 do Ủy ban Nhân dân thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk cấp cho ông Q, bà N ngày 11/02/2011 không còn giá trị).

2. Về con chung: Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Tuyết N, giao hai con chung là Mỵ Duy Q, sinh ngày 03/05/2012 và Mỵ Duy Thiện N, sinh ngày 18/7/2016 cho bà Nguyễn Thị Tuyết N trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho ông Q, đến khi nào bà N có đơn yêu cầu.

Ông Q có Quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

Trên cơ sở lợi ích của con, khi cần thiết cha, mẹ, người thân thích; cơ quan, tổ chức có Quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về nợ chung: Các đương sự khai không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng bà N chịu, được cấn trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí bà N đã nộp theo biên lai thu số 0027052 ngày 02/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận G. Bà N đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có Quyền thỏa thuận thi hành án, Quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo:

Các đương sự có Quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.  

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về ly hôn

Số hiệu:73/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về