Bản án 73/2021/HNGĐ-ST ngày 11/06/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 73/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 11 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 53/2021/HNGĐ – TLST ngày 01/4/2021 về việc “ Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung”.Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 10/5/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 70/2021/QĐ-STngày 26/5/2021giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thu H, sinh ngày 21/9/1994.

ĐKHKTT : Đội 1, thôn Đại H, xã K, huyện T, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).

2. Bị đơn : Anh Đào Văn L, sinh ngày 25/9/1988.

Nơi cư trú trước khi xuất cảnh : Đội 1, thôn Đại H, xã K, huyện T, tỉnh Hải Dương.

Hiện đang lao động tại Nhật Bản (vắng mặt).

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Đào Văn M, sinh năm 1962 và bà Trần Thị X, sinh năm 1966.

Địa chỉ :Đội 1, thôn Đại H, xã K, huyện T, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai - Nguyên đơn chị Trần Thị Thu H trình bày: Chị và anh Luật được tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, tỉnh Hải Dương ngày 21 tháng 3 năm 2012. Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2016 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do kinh tế khó khăn, bất đồng quan điểm dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát. Năm 2017 vợ chồng chị sang Nhật Bản lao động để làm kinh tế, cải thiện mối quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên khi sang nước ngoài lao động, tình cảm vợ chồng chị càng rơi vào bế tắc, anh Luật thường xuyên có thái độ ghen tuông, nghi ngờ chị. Anh chị đã thống nhất về Việt Nam để giải quyết ly hôn. Đầu năm 2020 chị về Việt Nam trước, còn anh Luật do dịch bệnh nên chưa về được. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh L.

Về con chung : Vợ chồng chị có hai con là Đào Trần Khánh T, sinh ngày 04/8/2015 và Đào Khánh D, sinh ngày 29/10/2012. Từ khi hai vợ chồng sang Nhật Bản cả hai cháu đều ở với ông bà nội. Nay ly hôn để ổn định cuộc sống của các con, anh chị đã thỏa thuận để anh Luật được nuôi cả hai con. Trong thời gian anh Luật không ở Việt Nam chị đồng ý để hai con cho bố mẹ anh Luật là ông Đào Văn M và bà Trần Thị X chăm sóc nuôi dưỡng. Tiền cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung : Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị H không cung cấp được địa chỉ của anh Luật ở Nhật Bản. Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của ông Đào Văn M và bà Trần Thị X là bố mẹ đẻ anh L. Ông M, bà X xác định anh L, chị H đi Nhật Bản từ năm 2017, để lại hai con cho ông bà chăm sóc, nuôi dưỡng. Thời gian ở Nhật Bản, vợ chồng chị H, anh Luật xảy ra mâu thuẫn. Đầu năm 2020 chị H về Việt Nam nhưng lại về nhà mẹ đẻ sinh sống và để hai con cho ông bà nuôi. Ông bà không biết địa chỉ của anh Luật nên không thể cung cấp cho Tòa án.Tuy nhiên anh Luật thường xuyên liên lạc bằng điện thoại cho ông bà, việc chị H có đơn xin ly hôn ông bà và anh Luật đều biết. Ông bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh Luật biết. Sau khi nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, ông M bà X xác định đã thông tin cho anh Luật biết. Anh Luật có quan điểm đồng ý ly hôn và xin được nuôi hai con, thời gian anh Luật không ở Việt Nam anh ủy quyền cho ông bà chăm sóc, nuôi dưỡng cháu D và cháu T. Về tài sản chung, nợ chung anh Luật không đề nghị Tòa án giải quyết, đồng thời đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh.

Cháu Đào Khánh D là con chung của chị H, anh Luật có quan điểm được ở với bố và ông bà nội khi bố mẹ ly hôn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn cơ bản đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Về quan điểm giải quyết: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn của chị H, anh Luật đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị H được ly hôn anh L; Về con chung: Giao cháu Đào Trần Khánh T, sinh ngày 04/8/2015 và cháu Đào Khánh D, sinh ngày 29/10/2012 cho anh Luật chăm sóc, nuôi dưỡng. Trong thời gian anh Luật không có mặt tại Việt Nam, tạm giao cháu D, cháu T cho ông Đào Văn M và bà Trần Thị X, chăm sóc, nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị H không cung cấp được địa chỉ của anh Luật ở Nhật Bản.Theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã hai lần yêu cầu gia đình anh Luật cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Qua xác minh tại gia đình anh Luật thì được biết, anh Luật vẫn thường xuyên liên lạc với bố mẹ đẻ là ông Đào Văn M và bà Trần Thị X, thông qua ông M và bà X anh Luật có quan điểm đồng ý ly hôn với chị H. Do vậy Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ. Anh Luật đồng ý để ông M, bà X chăm sóc nuôi dưỡng cháu D, cháu T trong thời gian anh không ở Việt Nam nên Tòa án xác định ông Đào Văn M và bà Trần Thị X là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị H, bà X, ông M có quan điểm xin được xét xử vắng mặt. Do vậy căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Thu H và anh Đào Văn Luật kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, tỉnh Hải Dương ngày 21 tháng 3 năm 2012, do vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được một thời gian, đầu năm 2017 chị H, anh Luật đều sang Nhật Bản lao động, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, không tìm thấy tiếng nói chung. Thực tế đầu năm 2020 chị H đã về Việt Nam nhưng không ở với gia đình anh Luật mà về ở nH bố mẹ đẻ. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn. Thông qua gia đình, anh Luật cũng có quan điểm đồng ý ly hôn với chị H. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị H, anh Luật đã kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cả hai đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H.

- Về con chung: Chị Trần Thị Thu H và anh Đào Văn Luật có 02 con chung là Đào Trần Khánh T, sinh ngày 04/8/2015 và Đào Khánh D, sinh ngày 29/10/2012, hiện hai cháu ở với ông bà nội. Ly hôn chị H, anh Luật thỏa thuận giao con chung cho anh Luật nuôi dưỡng, trong thời gian anh Luật không ở Việt Nam chị H đồng ý để các cháu ở với ông bà nội là ông Đào Văn M và bà Trần Thị X. Cháu D cũng có nguyện vọng được ở với bố và ông bà nội. Ông M, bà X có quan điểm đồng ý chăm sóc cháu D, cháu T trong thời gian anh Luật không ở Việt Nam. Do vậy, để đảm bảo sự ổn định cũng như nguyện vọng của các đương sự, cần giao cháu T cháu D cho anh Luật nuôi dưỡng. Trong thời gian anh Luật không ở Việt Nam, tạm giao cháu T, cháu D cho ông Đào Văn M và bà Trần Thị X chăm sóc, nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con, các bên tự thỏa thuận nên không đặt ra xem xét.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

[3].Về án phí: Chị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147, khoản 2 Điều 228 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị Thu H được ly hôn anh Đào Văn L.

2.Về con chung: Giao con chung Đào Khánh D, sinh ngày 29/10/2012 và Đào Trần Khánh T, sinh ngày 04/8/2015 cho anh Đào Văn Luật nuôi dưỡng cho đến khi con chung tròn 18 tuổi. Trong thời gian anh Luật không có mặt tại Việt Nam tạm giao cháu T, cháu D cho ông Đào Văn M và bà Trần Thị X chăm sóc, nuôi dưỡng.

Chị H được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

4. Về án phí: Chị Trần Thị Thu H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị đã nộp, theo biên lai thu số AA/2018/0005819 ngày 30 tháng 3 năm 2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị H đã nộp đủ án phí ly hôn.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Thu H, ông Đào Văn M và bà Trần Thị X được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Anh ĐàoVăn Luật được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2021/HNGĐ-ST ngày 11/06/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:73/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về