Bản án 73/2019/HSST ngày 12/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VỎ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 73/2019/HSST NGÀY 12/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ- Bắc Ninh, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 64/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Phùng Bá Đ, sinh năm 1989. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. HKTT: thôn VY, xã VL, huyện BV, thành phố HN. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Là con ông Phùng Bá Q và bà Phùng Thị S. Gia đình có 03 chị em, bị cáo là thứ hai. Vợ: Quách Thị H, sinh năm 1994. Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2014. Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không. Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/01/2019 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan : Chị Quách Thị H, sinh năm 1994 (Vợ bị cáo), HKTT: thôn VY, xã VL, huyện BV, thành phố HN. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy. Khoảng 15h20’ ngày 22/01/2019, khi Đ đang ở quán Internet tại thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ thì có Kỳ ở thôn Ngư Đại, xã Đại Xuân, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh là bạn quen biết xã hội gọi điện cho bị cáo nói: “Anh gọi hộ cho thằng bạn em năm trăm nước rồi mang ra Thảo Ngọc”. Bị cáo hiểu ý là Kỳ nhờ mua hộ 500.000đ ma túy đá, bị cáo nói: “Để anh gọi, xong anh gọi lại”. Khoảng 10 phút sau, Kỳ điện thoại lại cho bị cáo nói: “Thằng em em đang xuống đấy, xong anh lấy cho nó”; Bị cáo nói: “Bảo nó vào trong chùa đi”. Sau đó bị cáo điều khiển xe mô tô Honda Wave BKS: 36G5-246.24 đi ra khu vực đình Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ thì gặp Trần Văn Khương, sinh năm 1991, HKTT: thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ. Bị cáo nói với Khương: “Có thằng Kỳ nhờ lấy hộ thằng em nó năm trăm ma túy”. Sau đó Khương đưa cho bị cáo 01 gói giấy màu trắng cùng với băng dính và túi nilon màu trắng chứa chất tinh thể màu trắng mà Khương đang quấn dở. Bị cáo thấy gói ma túy Khương đưa cho đang quấn dở vẫn hở, bị cáo cầm ở tay rồi nhặt 01 tờ giấy màu trắng ở dưới đường quấn vào gói giấy màu trắng với băng dính và túi nilon màu trắng chứa chất tinh thể màu trắng mà Khương đưa cho, rồi điều khiển xe ra khu vực chùa Giang Liễu, xã Phương Liễu.

Khi đi ra khu vực chùa Giang Liễu, xã Phương Liễu, bị cáo vứt gói ma túy xuống lề đường, sát góc tường và điều khiển xe mô tô đứng cách khoảng 05- 06m chờ, mục đích là khi người mua ma túy đến thì bị cáo lấy tiền và chỉ vị trí gói ma túy cho mà không phải đưa trực tiếp. Sau đó Nguyễn Huy Dân, sinh năm 1993, HKTT: thôn Xuân Bình, xã Đại Xuân, huyện Quế Võ điện thoại cho bị cáo hỏi: “Anh ở đâu, anh đến chưa?”. Bị cáo nghe điện thoại nói: “Chú đi đến cổng chùa rồi rẽ phải, anh đang đứng ở đó”. Bị cáo đợi một lát thì thấy Dân điều khiển xe đạp điện chở anh Nguyễn Trung Thành, sinh năm 1988, HKTT: thôn Mao Dộc, xã Phượng Mao, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đi đến.

Khi gần đến chỗ bị cáo thì Dân bảo Thành xuống xe, Dân đi đến chỗ bị cáo, bị cáo nói: “Phải chú chỗ Kỳ không?”; Dân trả lời: “Vâng”. Bị cáo nói: “Đưa tiền đây”; Dân đưa cho bị cáo 500.000đ. Bị cáo cầm tiền Dân đưa đút vào túi quần bên trái đang mặc. Dân hỏi: “Ở đâu?” , ý hỏi ma túy đâu; Bị cáo quay mặt hất hàm ra chỗ gói ma túy bị cáo vứt ở lề đường, sát góc tường và nói: “kia kìa”. Do Dân không nhìn thấy gói ma túy nên Dân đã đòi lại tiền, bị cáo trả lại tiền cho Dân và hỏi: “Thế có lấy hay không”; Dân trả lời: “Nhưng anh phải chỉ cho em thấy chứ”. Bị cáo quay mặt hất hàm về hướng gói ma túy. Dân nhìn theo chỗ bị cáo chỉ thì thấy gói ma túy cần mua nên đã đưa lại 500.000đ cho bị cáo ( gồm 02 tờ tiền mệnh giá 200.000đ có số sêri KV 10055041 và KT 13535324; 01 tờ tiền mệnh giá 100.000đ có số sêri SQ 16559102). Bị cáo cầm tiền và Dân đi ra nhặt gói ma túy thì bị Công an huyện Quế Võ kết hợp Công an xã Phương Liễu bắt quả tang, thu giữ vật chứng gồm: 01 gói giấy màu trắng, bên trong có 01 gói giấy màu trắng được bọc bằng băng dính màu trắng chứa 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa chất dạng tinh thể trắng tại lòng bàn tay phải Nguyễn Huy Dân; thu giữ 500.000đ (gồm 02 tờ tiền mệnh giá 200.000đ, 01 tờ tiền mệnh giá 100.000đ) tại túi quần phía trước bên trái bị cáo đang mặc, 01 điện thoại di động Mobistar B221, 01 xe mô tô Honda Wave BKS: 36G5-246.24; 01 xe đạp điện hiệu Seeyes màu đen trắng.

Quá trình điều tra xác định 01 xe đạp điện hiệu Seeyes màu đen trắng là của anh Nguyễn Trung Thành, sinh năm 1988, HKTT: thôn Mao Dộc, xã Phượng Mao, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; 01 xe mô tô Honda Wave BKS: 36G5-246.24 là của anh Lục Văn Phiếu, sinh năm 1997, HKTT: thôn Hiềng, xã Kỳ Tân, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. Khi Đ mượn xe mô tô của anh Phiếu đi thì anh Phiếu không biết Đ sử dụng để đi bán ma túy. Cơ quan điều tra trả cho anh Thành sở hữu 01 xe đạp điện, trả anh Phiếu 01 xe mô tô BKS 36G5 - 246.24. Anh Thành, anh Phiếu đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì.

Tại bản Kết luận giám định số 229 ngày 22/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: “Chất tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon màu trắng có khối lượng 0,0404 gam; là ma túy; loại ma túy: Methamphetamine”.

Quá trình điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như đã nêu ở trên. Đ cho rằng việc làm của Đ không phải là hành vi bán ma túy mà do Kỳ nhờ đi mua ma túy hộ, nên Đ đã đi gặp Khương để lấy ma túy và đưa cho Dân.

Đối với số tiền 500.000đ thu tại túi quần phía trước bên trái bị cáo đang mặc khi bị bắt quả tang, bị cáo trình bày không biết từ đâu mà có; số tiền bán ma túy bị cáo đã trả lại cho Dân. Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất giữa bị cáo và Dân. Dân khai sau khi nhìn thấy gói ma túy thì Dân đã đưa lại 500.000đ cho bị cáo và Dân đi ra lấy ma túy thì bị Công an bắt quả tang.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi của bị cáo là bán ma túy, và số tiền 500.000đ trên là tiền bán ma túy cho Dân mà có.

Đối với Nguyễn Huy Dân là người mua ma túy của bị cáo; quá trình điều tra xác định Dân chưa có tiền án, tiền sự; lượng ma túy Dân mua mục đích để sử dụng chưa đủ lượng để xử lý hình sự, Công an huyện Quế Võ đã xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với Dân là thỏa đáng.

Đối với người đưa ma túy cho bị cáo để bán cho Dân, theo bị cáo khai là Khương, sinh năm 1991 ở thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ. Cơ quan điều tra đã xác minh có đối tượng Trần Văn Khương, sinh năm 1991 ở thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ. Khương trình bày không đưa ma túy cho bị cáo để bán. Hiện nay Khương không có mặt tại địa phương, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với người nhờ bị cáo mua ma túy hộ, theo bị cáo khai là Kỳ ở thôn Ngư Đại, xã Đại Xuân, huyện Quế Võ. Cơ quan điều tra xác minh có đối tượng Nguyễn Văn Kỳ, sinh năm 1999, HKTT: thôn Ngư Đại, xã Đại Xuân, huyện Quế Võ; hiện Kỳ không có mặt tại địa phương, nên tiếp tục điều tra xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với Nguyễn Trung Thành là người đi cùng với Dân, quá trình điều tra xác định anh Thành không biết việc Dân nhờ đi sau đó đi mua ma túy. Cơ quan điều tra không xử lý đối với Thành là phù hợp pháp luật.

Đối với chiếc điện thoại Nguyễn Huy Dân dùng liên lạc để mua ma túy, Dân khai quá trình bắt giữ đã làm rơi mất. Cơ quan điều tra đã truy tìm vật chứng nhưng chưa thu hồi được.

Tại bản cáo trạng số 62/CT-VKSQV ngày 06/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ đã truy tố bị cáo về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 - Điều 251— Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, sau khi xét hỏi và tranh luận, đại diện Viện kiểm sát trình bày luận tội, phân tích tính chất mức độ, nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo, xác định các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng đối với bị cáo. Khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ pháp luật. Đề nghị HĐXX áp dụng Khoản 1- Điều 251; Điểm s- Khoản 1- Điều 51; Điều 38- BLHS: Tuyên bố bị cáo phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 22/01/2019. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo vì bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, kinh tế khó khăn, áp dụng Điều 47- BLHS; Điều 106- Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì thư có dấu của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh. Tịch thu để sung quỹ Nhà nước số tiền 500.000đ của bị cáo, trả lại cho chị Hồng 01 điện thoại di động Mobistar B221 đã qua sử dụng.

Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận và bào chữa, lời nói sau cùng bị cáo trình bày nay đã biết mình vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận, mong bố mẹ, vợ con tha thứ cho. Xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm được về gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ và đã được thẩm tra xác minh công khai tại phiên tòa. Như biên bản bắt người phạm tội quả tang, tang vật vụ án, kết luận giám định về số ma túy thu giữ được và những tài liệu chứng cứ khác. Tất cả những chứng cứ trên đã chứng minh được: Hồi 15 giờ 45 phút ngày 22/01/2019, tại thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; bị cáo đã có hành vi bán trái phép 0,0404 gam ma túy là chất Methamphetamine cho Nguyễn Huy Dân, sinh năm 1993, HKTT: thôn Xuân Bình, xã Đại Xuân, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh lấy số tiền 500.000 đồng.

Do đó đã có đủ các yếu tố để kết luận bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1- Điều 251- BLHS. Như Viện kiểm sát truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã xâm phạm vào trật tự quản lý độc quyền chất ma túy của Nhà nước ta. Tính chất phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng. Hậu quả bị cáo đã có hành vi bán trái phép chất ma túy, gieo rắc cái chết trắng, gây mất trật tự trị an xã hội, tăng nguy cơ lây truyền vi rút HIV trong cộng đồng, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của tương lai giống nòi. Ngoài ra còn là nguyên nhân phát sinh tội phạm khác như trộm cắp, cướp giật...

Xét về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Sau khi phạm tội, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điểm s - Khoản 1- Điều 51- BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về nhân thân, bị cáo là người có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện ma túy.

Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự bằng một hình phạt tù nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, hậu quả tội phạm mà bị cáo gây ra cho xã hội. Phải cách ly bị cáo một thời gian đủ để trừng trị và giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội. Đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung tội phạm. Cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Xét bị cáo mua bán trái phép chất ma túy nhằm mục đích kiếm lời, nhưng bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Đối với tang vật của vụ án là số ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định, cần tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 500.000 đ thu giữ của bị cáo, đây là tiền do bán ma túy mà có nên cần tịch thu để sung quỹ Nhà nước. Đối với 01 điện thoại di động Mobistar B221 đã qua sử dụng của bị cáo, bị cáo sử dụng điện thoại này để liên lạc phục vụ cho việc bán ma túy, nhưng bị cáo khai đây là điện thoại của vợ bị cáo, bị cáo mượn để sử dụng, vợ bị cáo không biết bị cáo dùng vào việc liên lạc để bán ma túy. Chị Hồng vợ bị cáo cũng xác nhận bị cáo khai là đúng. Nên cần trả lại chiếc điện thoại này cho chị Hồng sở hữu là phù hợp pháp luật.

Bị cáo phải chịu án phí HSST.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 - Điều 251; Điểm s - Khoản 1- Điều 51; Điều 47; Điều 38 -BLHS; Điều 106; Khoản 2- Điều 136; Khoản 1, 3- Điều 329 - BLTTHS; Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Tuyên bố bị cáo Phùng Bá Đ phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Phùng Bá Đ 27 ( Hai mươi bẩy ) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 22/01/2019. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định, được đóng gói niêm phong trong phong bì thư có dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng chẵn) của bị cáo. Trả lại cho chị Quách Thị Hồng 01 điện thoại di động Mobistar B221 đã qua sử dụng. (Theo biên bản giao vật chứng ngày 06/5/2019 giữa Công an huyện Quế Võ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ).

- Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

- Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Hồng có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2019/HSST ngày 12/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:73/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về