Bản án 709/2019/HNGĐ-ST ngày 07/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 709/2019/ HNGĐ-ST NGÀY 07/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 07 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 464/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2019 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị L, cư trú tại: Thôn A, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L, cư trú tại: Tổ X, khu vực Y, phường N, thành phố Q, tỉnh Bình Định. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 18 tháng 5 năm 2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trần Thị L trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn L tự nguyện đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, thành phố Q vào ngày 15-6-2016. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị chung sống bình thường được 08 tháng ở phía chồng. Từ khi chị có bầu, khó khăn về tiền bạc, chồng chị đã chửi bới, bảo chị sinh con so về nhà mẹ đẻ. Sau khi sinh con được 04 tháng chị về lại nhà chồng ở. Chồng chị đi nhậu về say chửi bới chị và có 01 lần đánh tát tai chị. Chị đã về nhà cha mẹ của chị ở và ly thân với chồng được 05 tháng nay. Vì không còn tình cảm với anh L nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Vợ chồng chị có 01 con chung là Nguyễn Anh L (sinh ngày 18-4-2017), sức khỏe bình thường, đang ở với cha. Chị đang làm công nhân Xưởng gỗ Nghĩa Tín, thu nhập bình quân 4.500.000 đồng/tháng. Chị xin được nuôi con và và yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Hiện tại, sức khỏe của chị bình thường, chị không có mang thai. Về tài sản chung, vợ chồng chị tự giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản khai đề ngày 03 tháng 6 năm 2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Văn L trình bày:

Anh thống nhất về thời gian, điều kiện kết hôn và con chung như chị L trình bày. Vợ chồng anh sống hạnh phúc đến đầu năm 2019 mới phát sinh mâu thuẫn và chị L đã về nhà cha mẹ ruột ở từ tháng 4-2019 đến nay. Nguyên nhân là do: Từ khi đi làm (cuối năm 2018), chị L có nhiều thay đổi, không quan tâm đến anh và nhà cửa, con cái, nói gì cũng cãi lại; anh có đánh tát tai chị L 01 lần và chị L có đánh lại. Hiện tại, anh đang mở Tiệm sắt nhôm tại nhà, thu nhập bình quân 10.000.000 đồng/tháng. Chị L yêu cầu ly hôn anh cũng đồng ý ly hôn. Anh xin được nuôi con và không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, vợ chồng anh tự giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Ý kiến của Kiểm sát viên:

Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 55, 58 của Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị công nhận thuận tình ly hôn, giao con chung cho anh L nuôi, ghi nhận sự tự nguyện của anh L không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con, buộc đương sự phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Chị Trần Thị L có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và nuôi con chung. Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn đã thụ lý, giải quyết vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Chị Trần Thị L và anh Nguyễn Văn L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, thành phố Q vào ngày 15-6-2016, không vi phạm điều kiện kết hôn, nên hôn nhân giữa chị L và anh L là hôn nhân hợp pháp.

[3] Về tình trạng mâu thuẫn trong hôn nhân giữa vợ chồng chị L, anh L theo các bên trình bày phù hợp với Biên bản xác minh tại địa phương ngày 04-6-2019 (Bút lục số 23). Vợ chồng đã sống ly thân khoảng 04 tháng nay, không còn quan tâm, tình cảm và trách nhiệm với nhau. Tòa đã nhiều lần hòa giải, động viên vợ chồng để tiếp tục về chung sống nhưng chị L vẫn kiên quyết ly hôn và anh L cũng đồng ý ly hôn. Do đó, theo khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa chấp nhận cho ly hôn.

[4] Về con chung là Nguyễn Anh L (sinh ngày 18-4-2017), các bên đều mong muốn được nuôi con khi ly hôn. Tuy nhiên, cháu L chưa đủ 36 tháng tuổi, về nguyên tắc phải giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng và cha phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Cho nên, Tòa chấp nhận yêu cầu của chị L giao cháu L cho chị L nuôi và anh L phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng, kể từ tháng 8-2019 cho đến khi con đủ 18 tuổi là phù hợp với các Điều 58, 110, 116, 117 của Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về tài sản chung, các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm, theo điểm điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị L phải chịu án phí về ly hôn là 300.000 đồng trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp, anh L phải chịu án phí về cấp dưỡng nuôi con là 300.000 đồng.

[7] Ý kiến của Kiểm sát viên về giải quyết vụ án chỉ phù hợp một phần với nhận định nêu trên của Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 110, 116, 117 của Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Trần Thị L và anh Nguyễn Văn L.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Chị Trần Thị L và anh Nguyễn Văn L có 01 con chung là Nguyễn Anh L (sinh ngày 18-4-2017), hiện tại đang ở với cha.

2.2. Giao cháu L cho chị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh L có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng mỗi tháng là 1.000.000 đồng, kể từ tháng 08-2019 cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, nhưng nếu lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

3.1. Chị Trần Thị L phải chịu án phí về ly hôn là 300.000 đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0001436 ngày 27 tháng 5 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.

3.2. Anh Nguyễn Văn L phải chịu án phí về cấp dưỡng nuôi con là 300.000 đồng.

4. Về quyền, nghĩa vụ thi hành án:

4.1. Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

4.2. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

5. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 709/2019/HNGĐ-ST ngày 07/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:709/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về