Bản án 68/2021/HS-ST ngày 09/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 68/2021/HS-ST NGÀY 09/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 03 năm 2021, tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 83/2021/TLST-HS, ngày 04/02/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:719/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 2 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn H; Sinh ngày: 25/9/1988 tại Tp.Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 219/110 MXT, Phường n, Quận x, Tp.Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Nơi cư trú: Căn hộ A12.7 chung cư SNr số 243, đường THĐ, Phường a, Quận x, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn N (chết) và bà: Trần Thị X; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không;

Tạm giam ngày 04/6/2020 (có mặt).

-Bị hại:

Anh Hồ Anh H, sinh năm: 1992 Nơi thường trú: 84 khu phố 4, thị trấn BT, huyện BT, tỉnh BT.

Nơi cư trú: A12.07 chung cư SM số 243 THĐ, Phường a, Quận x, Tp.Hồ Chí Minh (vắng mặt).

-Người bào chữa:

Luật sư T - thuộc văn phòng luật sư HT - Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo.

-Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Lê Thị Kim H, sinh ngày: 05/6/1997 Nơi cư trú: chung cư tower số 569 AC, phường PT, quận TP, Tp.Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn H và anh Hồ Anh H cùng ở chung căn hộ A12.7 chung cư Summer địa chỉ số 243 THĐ, Phường a, Quận x, Tp.Hồ Chí Minh. H ở một phòng, anh H ở một phòng.

Khoảng 20 giờ ngày 22/4/2020 anh Hồ Anh H vay số tiền 1.500.000.000 đồng của anh Châu Ngọc Thạch để kinh doanh. Anh H đem số tiền này cùng với 841.514.000 đồng, tổng cộng là 2.341.514.000 đồng bỏ vào một ba lô màu đen để bên trong phòng ngủ của anh H tại căn hộ số A 12.7 rồi khóa cửa nhà đi ra ngoài. Lúc này, H về nhà không thấy anh H và đi vào phòng của anh H tìm ba lô của H (H cho anh H mượn trước đó) để đi du lịch, thì H nhìn thấy một ba lô màu đen của H để dưới bàn làm việc của anh H nên lấy đem về phòng ngủ của anh H. H mở ba lô ra nhìn thấy bên trong có nhiều tiền nên cất giấu trong phòng. Khoảng 22 giờ cùng ngày H nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền này của anh H nên gom quần áo cho vào một cái ba lô màu cam cầm trên tay và đeo 01 ba lô màu đen bên trong có tiền của Huy) rồi đi xuống tầng trệt đón xe Honda ôm đến khách sạn Hotel Riverside địa chỉ số 189 BVD, Phường z, Quận M thuê phòng 306 lầu 3 để lưu trú. Khi vào phòng khách sạn H lấy tiền ra đếm thì thấy có 04 cọc tiền mệnh giá 500.000 đồng, 01 cọc tiền mệnh giá 200.000 đồng, 01 cọc tiền mệnh giá 100.000 đồng, 02 cọc tiền mệnh giá 20.000 đồng, tổng cộng là 2.340.000.000 đồng (Hai tỷ ba trăm bốn mươi triệu đồng) rồi cất giấu trong phòng của khách sạn.

Khoảng 21 giờ cùng ngày, anh H về căn hộ A12.7 vào phòng thì phát hiện chiếc ba lô màu đen bên trong không còn số tiền 2.340.000.000 đồng bị mất. Sau đó, anh H đến phòng bảo vệ của chung cư xem lại hình ảnh camera ghi nhận tại chung cư thì phát hiện Nguyễn H đã lấy chiếc ba lô màu đen đi khỏi căn hộ nên anh H đến Công an Phường a, Quận x trình báo. Sau khi lấy trộm tiền của anh H, H dùng tiền mua 01 cái laptop hết 60.000.000 đồng; mua 01 điện thoại di động hiệu Samsung A20S hết 5.000.000 đồng tại cửa hàng FPT Quận M; trả nợ cho chị Lê Thị Kim H 20.000.000 đồng; cho chị Hồng 180.000.000 đồng và tiêu xài cá nhân tổng cộng hết 840.000.000 đồng. Ngày 30, 31/5/2020 H đưa số tiền 1.398.920.000 đồng và 01 cái laptop giá trị 60.000.000 đồng nhờ anh Nguyễn Huệ (em trai H) đem trả lại số tiền và tài sản này cho anh H).

Ngày 04/6/2020 Nguyễn H đến Phòng cảnh sát hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đầu thú, giao nộp một điện thoại di động Samsung A20S và 10.000.000 đồng. Tại cơ quan điều tra H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

- Tại Bản kết luận giám định số 2357/KLGĐ-TT ngày 30/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Không phát hiện dấu vết cắt ghép chỉnh sửa nội dung hình ảnh do thiết bị quay cầm tay ghi lại và đã trích xuất hình ảnh nghi vấn có liên quan đến vụ việc ra bản ảnh mô tả nội dung các hình ảnh trích xuất từ tập tin video cần giám định ký hiệu từ AI đến A5.

Vật chứng thu giữ:

-Tiền Ngân hàng Việt Nam: 10.000.000 đồng (Giấy nộp tiền ngày 05/1/2021- BL89) -Một điện thoại samsung hiệu A20S, số imei: 353248/11/265183/9.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình bị can Nguyễn H đã khắc phục hậu quả và bồi thường cho anh H số tiền 1 tỷ đồng. Anh H viết đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho H.

Tại Bản cáo trạng số: 78/CT-VKS-P2 ngày 01/02/2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội và đề nghị: Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn H từ 12-13 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Luật sư Hà Ngọc Tbào chữa cho bị cáo H trình bày: thống nhất với tội danh và điều khoản mà viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo. Tuy nhiên luật sư cũng xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo với những tình tiết như sau: Hành vi phạm tội của bị cáo chỉ mang tính nhất thời, bộc phát không có chủ ý từ trước, khi xảy ra sự việc bị cáo đã chủ động liên hệ người nhà khắc phục hậu quả cho phía bị hại với số tiền 1 tỷ đồng. Bên cạnh đó, hoàn cảnh gia đình của bị cáo rất khó khăn, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, tự lao động nuôi sống bản thân, trước khi xảy ra vụ án, bị cáo có nhân thân tốt chưa từng phạm tội, lần phạm tội này, bị cáo rất thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi. Do đó, luật sư mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án khoan hồng cho người phạm tội ra đầu thú; được hưởng tình tiết giảm nhẹ hình phạt quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để được áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đã truy tố cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo.

Tại phiên tòa, Bị cáo Nguyễn H thừa nhận hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại anh Hồ Anh H đã được bị cáo bồi thường số tiền một tỷ đồng. Anh H có viết đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho H đồng thời vắng mặt tại phiên tòa hôm nay.

Chị Lê Thị Kim H có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa và có cam kết tự nguyện trả lại số tiền 200.000.000 đồng mà chị đã nhận được từ bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đánh giá hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Đánh giá hành vi của bị cáo:

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Khoảng 20 giờ ngày 22/4/2020, khi H về căn hộ A12.7 để lấy lại chiếc ba lô H cho Huy mượn thì H không thấy anh H đâu. Khi nhìn thấy ba lô của mình để dưới bàn làm việc của anh H, H đã mở ba lô ra nhìn thấy bên trong có nhiều tiền nên cất giấu trong phòng. Khoảng 22 giờ cùng ngày, H nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền này của anh H. H gom quần áo cho vào một cái ba lô màu cam cầm trên tay và đeo 01 ba lô màu đen bên trong có tiền của Huy rồi đi xuống tầng trệt đón xe Honda ôm đến khách sạn A in Hotel Riverside ở địa chỉ số 189 BVD, Phường z, Quận M thuê phòng 306 lầu 3 lưu trú lại. Khi vào phòng khách sạn H lấy tiền ra đếm thì thấy tổng số tiền mặt trong ba lô là 2.340.000.000 đồng (Hai tỷ ba trăm bốn mươi triệu đồng) H cất giấu trong phòng của khách sạn. Khi anh H về căn hộ A12.7 vào phòng phát hiện mất tiền và kiểm tra camera biết được H là người lấy chiếc ba lô đi nên đã đến Công an Phường a, Quận x trình báo sự việc. Ngày 04/6/2020 Nguyễn H đến Phòng cảnh sát hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đầu thú, giao nộp một điện thoại di động Samsung A20S và 10.000.000 đồng. Đồng thời, tại cơ quan điều tra H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Do đó, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017) chiếm đoạt tài sản có trị giá 500.000.000 đồng trở lên.” Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo hộ. Do đó, cần áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố, cũng như xét xử, tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi, bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ hình phạt quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 cho bị cáo được hưởng mức án khoan hồng với mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đã truy tố cũng đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Tại cơ quan điều tra, bị hại Hồ Anh H đã được bồi thường khắc phục hậu quả, bị hại có làm đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra không có yêu cầu gì khác đối với bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận ý kiến của bị hại và không xem xét giải quyết.

Đối với yêu cầu tự nguyện trả lại số tiền 200.000.000 đồng của chị Lê Thị Kim H. Xét thấy số tiền này là tiền chị Hồng có được từ việc bị cáo chiếm đoạt tiền của bị hại để tặng cho chị Hồng. Hiện, gia đình bị cáo cũng đã khắc phục bồi thường tiền cho bị hại, do đó nếu bị cáo có yêu cầu, có thể khởi kiện đối với chị Lê Thị Kim H về số tiền 200.000.000 đồng trên bằng một vụ kiện dân sự khác.

[5] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với tiền Ngân hàng Việt Nam: 10.000.000 đồng (Giấy nộp tiền ngày 05/1/2021- BL89) và một điện thoại samsung hiệu A 20S, số imei:

353248/11/265183/9 là tài sản cá nhân mà bị cáo sử dụng tiền của bị hại có được. Hiện, bị cáo cùng gia đình đã bồi thường toàn bộ tiền cho phía bị hại, bị hại không có yêu cầu gì khác do đó nghĩ nên trả lại cho bị cáo số tài sản cá nhân trên bao gồm số tiền 10.000.000 đồng cùng 01 điện thoại samsung trên.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn H 10 (mười) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 04/6/2020.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Trả lại cho bị cáo H số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) (Giấy nộp tiền ngày 05/1/2021- BL89) và 01 điện thoại samsung hiệu A20S, số imei:353248/11/265183/9 (thực nhận Samsung A20, số imei 353248/11/265183/9).

Giành quyền khởi kiện cho bị cáo H đối với chị Lê Thị Kim H về số tiền 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) trong một vụ kiện dân sự khác khi có yêu cầu.

(Biên bản giao nhận tang tài vật số NK2021/170 ngày 05/2/2021 của Cục thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh).

- Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 13/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành xong, nếu bị cáo chưa thanh toán đủ số tiền nêu trên, thì căn cứ vào Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015, hàng tháng bị cáo còn phải chịu thêm khoản tiền lãi, theo mức lãi suất quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Căn cứ Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 68/2021/HS-ST ngày 09/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:68/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về