Bản án 67/2021/HNGĐ-ST ngày 25/05/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 67/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 25 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số:201/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1971 (có mặt);Địa chỉ: Số M, T, phường H, TP M, Tiền Giang;

Bị đơn: Nguyễn Văn Th, sinh năm 1970 (có mặt); Địa chỉ: Số M, T, phường H, TP M, Tiền Giang;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Nguyễn Thị Thu H trình bày:

Chị và anh Th xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp và có đăng ký kết hôn tại UBND phường 2, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang, theo đúng qui định pháp luật. Từ sau khi kết hôn thì tình cảm vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, anh Th không quan tâm đến vợ con, một mình chị vất vả nuôi con, anh Th còn cờ bạc gây nợ nần Thờng xuyên, chị đã nhiều lần lo mượn tiền để trả nợ cho anh Th, nhưng anh Th không từ bỏ, chị không có khả năng để lo cho con vừa lo trả nợ cho anh Th. Vợ chồng sống chung nhà nhưng không còn tình cảm.

Nhận thấy, tính tình cả hai không phù hợp, tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên làm đơn yêu cầu Tòa án xem xét:

- Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu H yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn Th.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Anh Th, sinh ngày 20/5/2005. Chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi tròn 18 tuổi và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết chị H.

- Về nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết Bị đơn Nguyễn Văn Th trình bày: Không đồng ý với lời trình bày của - Về hôn nhân: Còn tình cảm nên không đồng ý ly hôn. Anh có cờ bạc gây nợ nhưng đã hơn 01 năm nay không còn cờ bạc, hiện anh vẫn đi làm gửi tiền về nuôi con và gửi tiền trả nợ các chủ nợ của anh. Vợ chồng không gần gũi Thờng xuyên là do trong người anh không khỏe chứ không có vấn đề gì.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Anh Th, sinh ngày 20/5/2005. Anh không đồng ý ly hôn nên không đồng ý giao con cho chị H nuôi.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại phiên tòa:

Chị Nguyễn Thị Thu H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Anh Nguyễn Văn Th không đồng ý ly hôn với chị H, vì cho rằng còn tình cảm với chị H.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Th ký tòa án, Hội đồng xét xử và các đương sự từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm Hội đồng xét xử chuẩn bị nghị án đều đúng theo trình tự do Bộ luật tố tụng quy định.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đại diện Viện kiểm sát cho rằng yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Thu H là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn. Về con chung: Đề nghị giao con chung cho chị H được nuôi dưỡng, anh Th không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi thẩm tra xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nghe lời trình bày tranh luận của đương sự, phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Thu H và anh Nguyễn Văn Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Được Ủy ban nhân dân phường 2, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 1997. Ngày 22/3/2021 chị H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Th, đây là tranh chấp ly hôn được quy định tại Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Hình thức và nội dung đơn khởi kiện đúng quy định tại Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Nguyễn Văn Th, cư trú tại thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, chị Nguyễn Thị Thu H yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn Th vì cho rằng, từ sau khi kết hôn thì vợ chồng anh chị đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, do anh Th cờ bạc gây nợ nần Thờng xuyên, chị đã nhiều lần chi trả nhưng anh Th không từ bỏ, vợ chồng sống chung nhà nhưng không còn tình cảm. Phía anh Nguyễn Văn Th cho rằng hiện anh vẫn đi làm để phụ giúp gia đình và trả nợ cá nhân, anh còn Thơng vợ con nên không đồng ý ly hôn. Tại phiên tòa, chị H đã được giải thích về hậu quả của việc ly hôn nhưng vẫn cương quyết ly hôn, vì cho rằng không còn tình cảm với anh Th. Phía anh Th cam kết sữa đổi khuyết điểm nhưng không được chị H đồng ý. Hội đồng xét xử thấy rằng, hôn nhân phải dựa trên cơ sở tự nguyện của hai bên, phía chị H và anh Th thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng đã từ lâu, nhưng đến nay vợ chồng vẫn không giải quyết được mâu thuẫn, nay chị H cho rằng không còn tình cảm và cương quyết ly hôn với anh Nguyễn Văn Th. Căn cứ theo qui định tại mục 8 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000, cho thấy đời sống vợ chồng giữa chị H và anh Th đã mâu thuẩn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H.

[3] Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân anh chị có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Anh Th, sinh ngày 20/5/2005.

Xét thấy, cháu Th đã 16 tuổi, cháu có nguyện vọng muốn tiếp tục sống chung với mẹ là chị H nếu trường hợp cha mẹ cháu ly hôn. Để đảm bảo quyền lợi cho con chung là cháu Th, tôn trọng ý kiến của con chung. Hội đồng xét xử cần xem xét giao con chung là cháu Th cho chị Nguyễn Thị Thu H tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và lao động được, chị H không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét về cấp dưỡng.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Các bên không ai yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Đề nghị của Đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho là có cơ sở và phù với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6] Về án phí: Chị H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 84, 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 30/12/2016 của Ủy ban Thờng vụ Quốc Hội.

Xử: 1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thu H.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu H được ly hôn với anh Nguyễn Văn Th.

- Về con chung: Giao con chung Nguyễn Ngọc Anh Th, sinh ngày 20/5/2005 cho chị Nguyễn Thị Thu Hoà tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, đến khi con chung đủ 18 tuổi và lao động được. Anh Nguyễn Văn Th không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thu H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm. Chị H đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004996 ngày 22/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Mỹ Tho, nên xem như đã nộp xong án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Thu H với anh Nguyễn Văn Th có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2021/HNGĐ-ST ngày 25/05/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:67/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về