Bản án 66/2020/HSST ngày 25/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 66/2020/HSST NGÀY 25/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 64/2020/HSST ngày 05/5/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2020/QĐXXST - HS ngày 12/5/2020 đối với:

Bị cáo: Nguyễn Trọng T, sinh ngày 30 tháng 10 năm 2001, tại Hà Nội; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở hiện nay: Thôn G, xã V, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 6/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông: Nguyễn Trọng M; Con bà: Nguyễn Thị H; Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/02/2020 đến ngày 28/02/2020. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú.

Có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Nguyễn Tất T, sinh năm 1976; trú tại: Số nhà 66, tổ 36, Thị Trấn Đ Anh, huyện Đ, thành phố Hà Nội – Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Trọng T nhiều lần đến chơi điện tử tại quán Internet Hương Giang do anh Nguyễn Tất T làm chủ nên biết các cây máy tính tại quán này đều được để trong ngăn tủ dưới gầm bàn có khóa. Các chìa khóa được sâu thành một chùm và để trong ngăn bàn máy chủ tại tầng 01. Trên phòng tầng 02 có cửa chớp thông gió nhưng không có song cửa, buổi tối quán không có người trông coi nên T nảy sinh ý định trộm cắp linh kiện máy vi tính bán lấy tiền tiêu xài.

Khoảng 00h50’ ngày 20/02/2020, T một mình đi bộ mang theo balo màu xám, đội mũ lưỡi trai màu đen, đeo khẩu trang từ nhà đến quán Internet Hương Giang do anh Nguyễn Tất T sinh năm 1976; trú tại: Tổ 36, Thị Trấn Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội là chủ. Khi đến nơi, T bám vào các thanh cửa xếp của quầy thuốc Phương Anh (tiếp giáp với quán Hương Giang) trèo lên mái tôn tầng 01 của quầy thuốc Phương Anh rồi đi sang mái tôn tầng 01 của quán Hương Giang. T tiếp cận cửa chớp trên tầng 02, dùng tay tháo 05 tấm kính cửa chớp rồi đột nhập vào bên trong. Sau đó, T đi theo lối cầu thang xuống tầng 01 đến bàn máy tính chủ, tháo cây máy chủ lấy 01 ổ cứng SSD 250Gb rồi cho vào túi quần trước bên phải. Tiếp đến, T lấy chùm chìa khóa trong ngăn bàn máy chủ mở lần lượt 16 ngăn tủ chứa cây máy tính dưới tầng 01 và 06 ngăn tủ chứa cây máy tính trên tầng 2 để trộm cắp Ram, Chíp, Card màn hình máy tính. Tổng cộng số tài sản T trộm cắp được là: 22 Chíp nhãn hiệu Intel Core i3 - 6100; 40 Ram máy tính (gồm: 03 Ram loại 8Gb, 16 Ram Hyperx 4Gb, 21 Ram Kington 4Gb); 13 Card màn hình (gồm: 06 Card nhãn hiệu Giga 1050DS 4Gb và 07 Card nhãn hiệu Zotac 1050TI 4Gb). Sau đó T cho tài sản trộm cắp được vào balo rồi tẩu thoát về nhà. Trên đường, T vứt chiếc mũ lưỡi chai tại cánh đồng thôn G, xã V, huyện Đ, Thành phố Hà Nội.

Đến khoảng 09h00’cùng ngày, T mang 22 con Chíp máy tính trộm cắp được đến Công ty TNHH Đầu tư và Thương mại Cao Việt Nam địa chỉ: Thôn P, xã P, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh. Tại đây, T gặp anh Nguyễn Bình C sinh năm 1990; HKTT: thôn T, xã C, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh, là chủ công ty, T đưa cho anh C xem số linh kiện máy tính trộm cắp được rồi nói là do T mua của người khác và đặt vấn đề bán lại cho anh C. Anh C kiểm tra thì thấy có 06 con Chíp bị gãy, móp méo nên trả lại. T tiếp tục hỏi anh C có mua Ram và Card màn hình không thì anh C bảo T mang đến để kiểm tra trước khi mua. T đồng ý rồi để lại 16 Chíp máy tính cho anh C tiếp tục kiểm tra. Sau đó T quay về nhà lấy Ram và Card màn hình trộm cắp được đến bán cho anh C. Trên đường về, T vứt bỏ 06 Chíp máy tính hỏng xuống ven đường. Đến khoảng 11h30’ cùng ngày, T cho toàn bộ số Ram và Card màn hình trộm cắp được rồi mang đến đưa cho anh C kiểm tra. Anh C đưa tiếp cho T 03 con Chíp bị hỏng mới phát hiện và hẹn bị cáo chiều quay lại. T đồng ý và mang 03 con Chíp máy tính hỏng về nhà cất trong tủ tại phòng khách tầng 01.

Vật chứng tạm giữ:

- Của anh Nguyễn Bình C: 13 Chíp nhãn hiệu Intel Core i3 – 6100, 40 Ram máy tính (trong đó có 03 Ram 8Gb, 16 Ram HyperX 4Gb, 21 Ram Kington 4Gb), 13 Card màn hình (trong đó có 06 Card màn hình nhãn hiệu Giga 1050TI 4Gb và 07 Card màn hình nhãn hiệu Zotac 1050TI 4Gb) và 01 ba lô màu ghi xám kích thước (30x40)cm đã qua sử dụng.

- Của Nguyễn Trọng T: 01 chiếc mũ lưỡi chai màu ghi và 03 Chíp Intel Core i3 - 6100.

- Của anh Nguyễn Tất T: 01 USB nhãn hiệu Data Traveler màu đen (có dữ liệu hình ảnh liên quan đến vụ án).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 89 ngày 28/02/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Đông Anh kết luận: 13 Card màn hình trị giá: 20.800.000đồng; 03 chiếc Ram 8G trị giá: 1.350.000đồng; 16 chiếc Ram Hyperx 4G trị giá: 4.000.000đồng; 21 chiếc Ram Kington 4G trị giá 5.250.000đồng; 22 con Chíp nhãn hiệu Intel i3 – 6100 trị giá 26.400.000đồng. Tổng trị giá tài sản là: 57.800.000đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 98 ngày 06/3/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Đông Anh kết luận: 01 ổ cứng SSD SamSung 250Gb trị giá: 780.000đồng.

Như vậy, tổng trị giá tài sản của anh Nguyễn Tất T bị chiếm đoạt là: 58.580.000 đồng.

Kết quả điều tra xác định anh Nguyễn Bình C không biết các tài sản mà bị cáo bán cho anh là tài sản do trộm cắp mà có, nên Cơ quan Điều tra không đề cập xử lý.

06 Chíp máy tính, T khai vứt bỏ ở ven đường đoạn cầu vượt thôn G, xã L, huyện Đ, Thành phố Hà Nội. Cơ quan Điều tra đã tổ chức truy tìm nhưng không thu giữ được.

01 ổ cứng SSD 250Gb nhãn hiệu SamSung và 01 chiếc khẩu trang, T khai trên đường tẩu thoát đã làm rơi chiếc ổ cứng, còn chiếc khẩu trang thì T đã vứt bỏ nhưng không rõ địa điểm nên Cơ quan Điều tra không đủ căn cứ để truy tìm.

16 Chip Intel Core i3 – 6100, 40 Ram và 13 Card màn hình máy tính đã thu giữ, kết quả kiểm tra xác định: Về Chíp thì có 02 Chíp bị hỏng; về Ram thì có 01 Ram HyperX 4Gb và 11 Ram Kington 4Gb bị hỏng; Về Card thì có 05 Card Giga 1050TI 4Gb, 02 Card Zotac 1050TI 4Gb bị hỏng hoàn toàn, 01 Card Zotac 1050TI 4Gb bị gãy chân ra màn hình (chi phí sửa chữa khoảng 300.000 đồng), 01 Card Giga 1050TI 4Gb bị hỏng quạt làm mát (chi phí sửa chữa khoảng 100.000 đồng). Còn lại các linh kiện đều hoạt động bình thường. Anh Nguyễn Tất T xác định trước khi bị trộm cắp, tất cả các máy tính trong quán đều hoạt động bình thường. Số tài sản trên đều là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Tất T. Ngày 11/3/2020, Cơ quan Điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho anh Nguyễn Tất T.

Về dân sự:

Anh Nguyễn Bình C không yêu cầu, đề nghị gì về dân sự.

Anh Nguyễn Tất T yêu cầu bị cáo T bồi thường tổng số tiền 76.950.000 đồng, gồm các khoản cụ thể như sau: 200.000 đồng tiền thay thế, sửa chữa ổ khóa tủ; 100.000 đồng tiền sửa chữa cửa chớp; 31.500.000 đồng tiền thất thu do không kinh doanh 21 ngày; 16.000.000 đồng tiền 08 Chíp máy tính không thu hồi được và bị hỏng; 4.800.000 đồng tiền 12 Ram máy tính bị hỏng; 22.500.000 đồng tiền 09 Card màn hình bị hỏng; 1.300.000 đồng tiền 01 ổ cứng SSD 250Gb nhãn hiệu SamSung không thu hồi được và 550.000 đồng tiền 01 Mail máy tính bị hỏng (phát hiện sau khi khám nghiệm hiện trường). Ngày 18/5/2020 bị cáo đã bồi thường cho anh Nguyễn Tất T 30.000.000 đồng và có đơn để nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại Cáo trạng số 64/CT - VKS ngày 29/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh đã truy tố Nguyễn Trọng T về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện Kiểm Sát nhân dân huyện Đông Anh giữ nguyên quyết định truy tố Nguyễn Trọng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt Nguyễn Trọng T từ 24 đến 30 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Tịch thu tiêu hủy 01 mũ lưỡi chai màu ghi (tạm giữ của T) và 01 ba lô màu ghi xám (tạm giữ của anh C), là vật chứng của vụ án do Nguyễn Trọng T đã sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội.

Tại phiên tòa, Nguyễn Trọng T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã nêu, không kêu oan và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho mình một phần hình phạt. Anh Nguyễn Tất T vẫn giữ nguyên quan điểm không yêu cầu Bị cáo bồi thường thêm về dân sự, đồng thời đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt và được cải tạo ngoài xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Điều tra Công an huyện Đông Anh, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong quá trình điều tra vụ án nên có căn cứ xác định:

Khoảng 00h50’ ngày 20/02/2020, Tại quán Internet Hương Giang do anh Nguyễn Tất T sinh năm 1976; trú tại: Số nhà 66, tổ 36, Thị Trấn Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội, Nguyễn Trọng T đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 ổ cứng SSD 250Gb rồi cho vào túi quần trước bên phải. Tiếp đến, T lấy chùm chìa khóa trong ngăn bàn máy chủ mở lần lượt 16 ngăn tủ chứa cây máy tính dưới tầng 01 và 06 ngăn tủ chứa cây máy tính trên tầng 2 trộm cắp Ram, Chíp, Card màn hình máy tính. Tổng cộng số tài sản T trộm cắp được là: 22 Chíp nhãn hiệu Intel Core i3 - 6100; 40 Ram máy tính (gồm: 03 Ram loại 8Gb, 16 Ram Hyperx 4Gb, 21 Ram Kington 4Gb); 13 Card màn hình (gồm: 06 Card nhãn hiệu Giga 1050DS 4Gb và 07 Card nhãn hiệu Zotac 1050TI 4Gb).

Tổng trị giá tài sản của mà bị cáo đã bị chiếm đoạt là: 58.580.000 đồng.

Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng ... thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm...

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

 c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.”

Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm hại quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng an toàn xã hội. Bị cáo là người đã thành niên, nên buộc bị cáo phải nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị Nhà nước quy định là tội phạm, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi lợi dụng sự sơ hở của chủ tài sản, lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt lớn hơn 50.000.000 đồng. Như vậy hành vi của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự, như kết luận của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh là có căn cứ và phù hợp quy định của pháp luật.

[3] Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả và bồi thường cho người bị hại. Sau khi nhận tiền bồi thường thì người bị hại không yêu cầu bồi thường thêm và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm b, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4]. Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo phạm tội lần đầu. Mặt khác khi phạm tội bị cáo mới 18 tuổi 01 tháng, nhận thức còn hạn chế, nên nhất thời phạm tội.

Theo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 và hướng dẫn tại Điều 2 của Nghị quyết số 02/2018/NQ - HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối Cao. Xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội với thời gian thử thách nhất định dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi cư trú cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo cũng như có tác dụng phòng ngừa chung.

Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị phạt tiền để nộp ngân sách Nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo chưa có việc làm, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Anh Nguyễn Bình C, không biết các tài sản do bị cáo mang đến công ty của mình để tiêu thụ là tài sản do phạm tội mà có, nên Cơ quan Điều tra không đề cập xử lý là có căn cứ.

[5] Về bồi thường dân sự:

- Bị cáo đã bồi thường cho anh Nguyễn Tất T 30.000.000 đồng và anh Thắng đã tự nguyện không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm nên được ghi nhận.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 mũ lưỡi chai màu ghi và 01 ba lô màu ghi xám, là vật chứng của vụ án do Nguyễn Trọng T đã sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- 16 Chip Intel Core i3 – 6100, 40 Ram và 13 Card màn hình máy tính đã thu giữ, là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Tất T. Ngày 11/3/2020, Cơ quan Điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho anh Nguyễn Tất T là có căn cứ, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 48 và điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- 01 USB lưu giữ đoạn video ảnh bị cáo trộm cắp tài sản (hiện đang lưu giữ tại hồ sơ vụ án). Là tài sản hợp pháp cần trả lại cho anh Nguyễn Tất T. Tuy nhiên tại phiên tòa Anh T đã tự nguyện không nhận lại. Đây là hình ảnh chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nên cần được lưu giữ tại hồ sơ vụ án.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng Án phí, Lệ phí Tòa án.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trọng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Căn cứ vào:

- Điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 47 Bộ luật Hình sự.

- Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng Án phí, Lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Nguyễn Trọng T 24 (hai mươi bốn) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 (bốn mươi tám) tháng kể từ ngày 25/5/2020. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã V, huyện Đ, Thành phố Hà Nội để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo.

- Tịch thu tiêu hủy 01 mũ lưỡi chai màu ghi và 01 ba lô màu ghi xám đã qua sử dụng, theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 04/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh.

Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo và Người bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày 25/5/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2020/HSST ngày 25/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:66/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về