Bản án 654/2019/HNGĐ-ST ngày 25/11/2019 về tranh chấp yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 654/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/11/2019 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Trong ngày 25 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện F xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 544/2019/TLST-HNGĐ ngày 21/10/2019 về việc “yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 192/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 07/11/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Nguyễn Lê Minh A, sinh năm 1996;

Địa chỉ: Ấp C, xã D, huyện E, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn: Nguyễn Minh B, sinh năm 1987;

Địa chỉ: thị trấn F, huyện F, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải nguyên đơn chị Nguyễn Lê Minh A trình bày:

Ngày 15/01/2019 chị và anh Nguyễn Minh B thuận tình ly hôn và đã được Tòa án nhân dân huyện F ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn số:

36/2019/QĐST-HNGĐ trong phần quyết định về con chung thì chị và anh B thỏa thuận giao con chung tên Nguyễn Phúc N, sinh ngày 01/11/2013 cho anh Nguyễn Minh B được tiếp tục nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi con chung. Tuy chị không trực tiếp nuôi con chung, nhưng chị vẫn thường xuyên chăm sóc, quan tâm, thăm nom, đưa đón con đi học. Phía anh Blà người trực tiếp nuôi con nhưng lại chăm sóc con không tốt như thường xuyên để bé thức khuya, thường để con một mình, ít dành thời gian chơi cùng con cũng như quan tâm đến con. Khi con vào lớp 1 học tại trường tiểu học thị trấn F, anh Bthường xuyên đưa đón con đi học trễ, bỏ bữa sáng, không quan tâm đến việc học hành của con mặc dù đã được giáo viên chủ nhiệm lớp nhắc nhở nhiều lần. Qua trao đổi với giáo viên chủ nhiệm lớp chị được biết tình hình học tập của con không tốt, con hiếu động quá mức, không nghe lời, không tập trung vào bài học…v..v chị có đưa con đến Bệnh viện nhi đồng thành phố thăm khám và được bác sĩ chẩn đoán bé mắc hội chứng ADHD - Tăng động giảm chú ý và bác sĩ có chỉ định con cần điều trị tâm lý và kèm theo thuốc. Về việc điều trị tâm lý, bác sĩ yêu cầu cả cha mẹ đến để tư vấn hướng điều trị cho con, chị đã thông báo cho anh Trung, nhưng anh Bkhông quan tâm. Chị nhận thấy hiện con đang rất cần chị chăm sóc, nuôi dưỡng và ý chí con cũng muốn sống với chị. Do đó, chị yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn, giao con chung của chị và anh Btên Nguyễn Phúc N, sinh ngày 01/11/2013 cho chị trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc, chị không yêu cầu anh Bcấp dưỡng nuôi con chung.

Tại biên bản hòa giải và tại phiên tòa anh Nguyễn Minh Btrình bày: Anh không đồng ý theo yêu cầu của chị A, bởi vì từ nhỏ con đã sống chung với anh và bà nội của cháu và anh đã nuôi dưỡng, chăm sóc con tốt. Chị A đi làm suốt ngày không có thời gian để chăm sóc con, công việc anh làm ở nhà, có thời gian hơn trong việc chăm sóc cho con và việc học hành của con đã ổn định, nhà gần trường học nên anh không đồng ý giao con cho chị A nuôi.

Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Việc tuân thủ pháp luật của thẩm phán: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm xét xử, thẩm phán đã chấp hành đúng các qui định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý và tại phiên tòa các đương sự có thực hiện đúng các qui định về quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng.

Về việc giải quyết vụ án: Viện kiểm sát có lập luận và kết luận yêu cầu khởi kiện xin thay đổi người nuôi con của chị A là có căn cứ vì hiện tại anh Bchưa đủ điều kiện để nuôi con, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị A giao cháu Nguyễn Phúc N, sinh ngày 01/11/2013 cho chị A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng (kèm theo bài phát biểu có tại hồ sơ vụ án);

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu có tại hồ sơ vụ án; Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử xét thấy.

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ theo yêu cầu khởi kiện của chị A yêu cầu thay đổi người nuôi con nên tòa án căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình xác định quan hệ tranh chấp là thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

[3] Về nội dung: Xét yêu cầu xin thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của chị Nguyễn Lê Minh A; Hội đồng xét xử nhận thấy chị A và anh Bđã thuận tình ly hôn theo quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của đương sự số: 36/2019/QĐST – HNGĐ ngày 15/11/2019 theo đó anh chị thỏa thuận giao cháu Nguyễn Phúc N sinh ngày 01/11/2013 cho anh Btrực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Tuy nhiên, sau khi anh chị ly hôn thì anh Bbỏ bê cháu N, không chăm sóc, dẫn đến cháu học tập có kết quả không tốt, ngoài ra cháu còn bị bệnh tăng động giảm chú ý nhưng anh B không phối hợp với chị A để điều trị cho cháu. Căn cứ vào ý kiến của giáo viên chủ nhiệm lớp nơi cháu N học tập thì giáo viên phản anh tình hình học tập của cháu chưa được tốt, chưa có sự phối hợp tốt giữa nhà trường và phụ huynh. Về chính quyền địa phương thì cho rằng anh Bcũng có hoàn cảnh khó khăn nên việc nuôi dưỡng, chăm sóc cháu N còn chưa tốt. Từ những nhận định trên, xét thấy hiện tại anh B chưa đủ điều kiện nuôi con nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con đối với cháu N, giao lại cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu N, ghi nhận việc chị A không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Bcó quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được quyền cản trở.

[4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị A không phải chịu án phí yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, anh Nguyễn Minh Bphải chịu 300.000 đồng án phí thay đổi ngươi trực tiếp nuôi con;

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát có căn cứ, phù hợp với nhận định của Tòa án nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự ;

Căn cứ vào Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Lê Minh A;

Giao cháu Nguyễn Phúc N, sinh ngày 01/11/2013 cho chị A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng;

Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh B đến khi chị A có yêu cầu;

Anh B có quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

Về án phí: Anh B phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm. Hoàn lại chị A 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003048 ngày 21/10/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện F;

Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 654/2019/HNGĐ-ST ngày 25/11/2019 về tranh chấp yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

Số hiệu:654/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về