Bản án 633/2018/HNGĐ-ST ngày 15/05/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 633/2018/HNGĐ-ST NGÀY 15/05/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 22/2018/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2059/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:

1.  Nguyên đơn: Ông Nguyen Hung V, sinh năm 1961

Địa chỉ: Round Rock, TX 78664, USA

2.  Bị đơn: Bà Dai Kim P, sinh năm 1973

Địa chỉ: 148 khu phố A, phường C, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 12/01/2018 và bản tự khai ngày 19/01/2018, nguyên đơn ông Nguyen Hung V trình bày:

Ông và bà Dai Kim P là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại UBND Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 21/12/2016.

Trước khi kết hôn, hai bên không có thời gian tìm hiểu nhau nên sau khi kết hôn vợ chồng nhận thấy tính tình không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, phát sinh nhiều mâu thuẫn trầm trọng. Ông sống cùng bà P ở Việt Nam thời gian ngắn là trở về Hoa Kỳ. Do vợ chồng sống xa nhau, không có sự quan tâm lẫn nhau nên tình cảm ngày càng rạn nứt, lạnh nhạt, cuộc sống chung không có hạnh phúc. Đến nay, ông xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục đời sống chung nên yêu cầu Tòa án giải quyết chấm dứt quan hệ hôn nhân.

Về con chung: không có.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Bị đơn bà Dai Kim P trình bày: Tháng 01/2016, ông Nguyen Hung V về Việt Nam thăm gia đình và bạn bè. Vì ông Nguyen Hung V là bạn học cũ của anh trai bà nên người quen giới thiệu bà quen biết và đồng ý kết hôn vào ngày 21/12/2016, có làm thủ tục đăng ký kết hôn.

Đầu tháng 12/2016, ông Nguyen Hung V về Việt Nam để chuẩn bị kết hôn. Hai bên chung sống với nhau đến ngày 05/01/2017 ông Nguyen Hung V quay về Mỹ. Sau đó hai bên liên lạc với nhau qua mạng internet. Trong thời gian chung sống và liên lạc với nhau giữa vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, bất hòa vì không hợp nhau và cũng không thể hòa giải được. Bà xác định tình cảm đối với chồng không còn, bà đồng ý ly hôn.

Về con chung: không có.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn ông Nguyen Hung V, bị đơn bà Dai Kim P đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn ông Nguyen Hung V đang cư trú tại Round Rock, TX 78664, USA; bị đơn bà Dai Kim P cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; giữa đôi bên có tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam theo quy định tại Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 465; Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và  Điều 122, Điều 123 và Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tòa án không thu thập chứng cứ nên căn cứ khoản 2 Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Viện Kiểm sát không tham gia phiên tòa sơ thẩm.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Nguyên đơn ông Nguyen Hung V, bị đơn bà Dai Kim P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy:

Ông Nguyen Hung V và bà Dai Kim P tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2016, có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 101 ngày 21/12/2016 của Ủy ban nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy hôn nhân giữa đôi bên là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Theo lời khai của cả ông Nguyen Hung V và bà Dai Kim P thì sau khi kết hôn, vợ chồng chỉ chung sống với nhau được thời gian ngắn là phát sinh mâu thuẫn, bất hòa. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, tính tình không hòa hợp và do vợ chồng sống xa nhau nên tình cảm rạn nứt và dần lạnh nhạt, không thể hàn gắn tình cảm để tiếp tục cuộc sống chung. Ông Nguyen Hung V, bà P đều xác định tình cảm vợ chồng không còn và có yêu cầu ly hôn.

Xét, tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ cả hai phía cùng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng và cùng có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Thực tế vợ chồng đã không còn sống cùng nhau, không tạo được điều kiện hàn gắn tình cảm, mâu thuẫn giữa vợ chồng lâm vào tình trạng trầm trọng. Do đó, nếu tiếp tục kéo dài quan hệ hôn nhân nói trên thì mục đích của hôn nhân cũng không thể đạt được. Xét, yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa đôi bên là có căn cứ pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con chung: không có

Về tài sản chung và nợ chung: ông Nguyen Hung V, bà P xác định không có.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng nguyên đơn chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 469; Điều 474; Điều 477; Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 122, Điều 123, Điều 127Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ Luật phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự 2008;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyen Hung V;

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyen Hung V được ly hôn bà Dai Kim P. Giấy chứng nhận kết hôn số 101 của Ủy ban nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 21/12/2016 không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: không có.

3. Về tài sản chung và nợ chung: không có.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng ông Nguyen Hung V nộp tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, cấn trừ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng ông Nguyen Hung V đã nộp tại Biên lai thu số AA/2017/0048658 ngày 16/01/2018 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyen Hung V đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn ông Nguyen Hung V và bị đơn bà Dai Kim P; ông Nguyen Hung V được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ, bà Dai Kim P được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 633/2018/HNGĐ-ST ngày 15/05/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:633/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về