Bản án 62/2020/HS-ST ngày 21/08/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 62/2020/HS-ST NGÀY 21/08/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 60/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 63/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

TRẦN HIẾU N, sinh năm: 1987 tại tỉnh Bến Tre; Nơi cư trú: Số 263, ấp BT, xã BP, thành phố BT, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn H (đã chết) và bà Nguyễn Thị Ngọc Đ (đã chết); Vợ: Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm: 1992 (đã ly hôn); Có 01 người con sinh năm 2010; Tiền án: không; Tiền sự:

kng; Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 22/02/2020; Tạm giam ngày 28/02/2020. (Có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Phạm Thị T, sinh năm: 1995;

Nơi cư trú: Số 180, ấp P, xã PH, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt) 2. Trần Văn C, sinh năm: 1976;

Nơi cư trú: Số 96, ấp BT, xã BP, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt) 3. Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm: 1992;

Nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre. (Có mặt) - Người làm chứng:

1. Phạm Đình Minh H, sinh năm 1993;

Nơi cư trú: ấp B, xã BT, huyện G, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt) 2. Nguyễn Thị Bích Ng, sinh năm: 1989;

Nơi cư trú: ấp R, xã B, huyện G, tỉnh Kiên Giang. (Vắng mặt) - Người chứng kiến: Trần Thị Kim P, sinh năm 1998;

Nơi cư trú: Số 594B4, khu phố B, phường P, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Để có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng, từ khoảng tháng 8 năm 2019, Trần Hiếu N đã nhiều lần đến Thành phố Hồ Chí Minh mua ma túy của 01 người thanh niên tên T (không rõ lai lịch) đem về phân chia nhỏ ra để bán cho khách đến hát Karaoke tại quán B ở số 9A3, khu phố B, Phường S, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. N bán nhiều lần cho nhiều người nhưng không xác định được đối tượng mua và từng lần bán, chỉ xác định được bán cho Phạm Thị T và Nguyễn Thị Bích Ng những lần gần nhất, cụ thể:

Bán cho Nguyễn Thị Bích Ng 01 lần: Vào khoảng 23 giờ ngày 21/02/2020, Ng điện cho N hỏi mua 04 viên ma túy dạng “thuốc lắc” và 01 chấm ma túy dạng “khây” với giá 1.900.000 đồng. N đồng ý và hẹn giao ma túy cho Ng tại phòng 204 quán Karaoke B. Sau đó, N đem ma túy đến giao cho Ng và nhận 1.900.000 đồng.

Bán cho Phạm thị T 02 lần: Lần thứ nhất: Vào khoảng 22 giờ ngày 21/02/2020, T điện thoại cho N hỏi mua 03 viên ma túy dạng “thuốc lắc” và 01 chấm ma túy dạng “khây” với giá 1.800.000 đồng. N đồng ý bán và hẹn giao ma túy cho T tại phòng 205 quán B. Sau đó, N đem ma túy đến giao cho T và nhận 1.800.000 đồng. Lần thứ hai: Vào khoảng 00 giờ 05 phút ngày 22/02/2020, T tiếp tục điện thoại cho N hỏi mua 03 viên ma túy dạng “thuốc lắc” và 01 chấm ma túy dạng “khây” với giá 1.800.000 đồng. N đồng ý bán và cũng hẹn giao ma túy tại phòng 205 quán Karaoke B. Nhưng khi N đem ma túy đến giao thì T không đủ tiền nên chỉ mua 900.000 đồng ma túy dạng “khây”. N nhận 900.000 đồng và giao 01 bịch ma túy dạng “khây” cho T, ngay sau đó thì bị lực lượng Công an phát hiện, N vứt bỏ bịch ma túy dạng “thuốc lắc” còn lại xuống nền gạch trước phòng 204 quán Karaoke B để phi tang nhưng bị lực lượng Công an phát hiện.

Tang vật thu giữ gồm:

- Thu của Trần Hiếu N:

+ Thu trên nền gạch kế bên chân của N: 01 túi nylon hàn kín 03 phía, phía còn lại có rãnh khép và vạch màu đỏ, bên trong túi này có 03 viên nén hình tam giác màu hồng nghi là chất ma túy (sau khi thu giữ được niêm phong trong phong bì kí hiệu N);

+ Thu trong túi quần phía sau bên trái của N số tiền 900.000 đồng.

+ Thu trong túi quần phía sau bên phải của N: 01 chúng minh nhân dân mang tên Trần Hiếu N; 01 giấy đăng ký xe mô tô mang tên Nguyễn Thị Hồng T và số tiền 5.400.000 đồng - Thu của Phạm Thị T:

+ 01 túi nylon hàn kín 03 phía, phía còn lại có rãnh khép và vạch màu xanh, bên trong chưa tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy (sau khi thu giữ được niêm phong trong phong bì kí hiệu T);

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu ITEL màu đỏ, có số IMEI: 358625101428680 và 358625101428698 và sim số 0587281139.

- Tiến hành khám xét khẩn cấp phòng số 205 của quán Karaoke B ở số 9A3, khu phố B, Phường S, thành phố BT, tỉnh Bến Tre nơi T đang hát karaoke cùng bạn, lực lượng Công an thu giữ: 01 đĩa màu trắng bằng sứ, 01 tờ giấy bạc mệnh giá 5.000 đồng cuộn tròn.

- Khám xét khẩn cấp chỗ ở của N tại nhà số 263, ấp BT, xã BP, thành phố BT, tỉnh Bến Tre lực lượng Công an thu giữ: 50 túi nylon rỗng.

- Ngoài ra Cơ quan cảnh sát điều tra còn thu giữ:

+ 01 đầu ghi camera hiệu Keeper;

+ 01 xe môt tô nhãn hiệu YAMAHA loại SIRIUS màu đen xám, biển số 71B2-481.77 số khung: RLCS1FC40FY029557, số máy: 1FC4029546;

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng, số IMAE: 354021083221786/01 và 354021083221784/01 cùng sim 0787892034.

Theo bản kết luận giám định số 17/2020/GĐMT ngày 22/02/2020, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận:

- 03 viên nén màu hồng đựng trong 01 túi nylon được niêm phong trong phong bì có kí hiệu N gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng: 1,5038 gam.

- Tinh thể màu trắng đựng trong 01 túi nylon được niêm phong trong phong bì có kí hiệu T gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, khối lượng: 0,1389 gam.

Tại bản cáo trạng số 62/CT-VKSTPBT ngày 17 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã truy tố bị cáo Trần Hiếu N về “Tội mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà:

Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị:

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Trần Hiếu N từ 07 năm đến 07 năm 6 tháng tù về “Tội mua bán trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt bổ sung: đề nghị không áp dụng đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 46, 47, 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 4.600.000 đồng (trong tổng số tiền 6.300.000 đồng bị thu giữ), 01 điện thoại di động nhãn hiệu ITEL màu đỏ; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng và 01 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng được cuộn tròn thành hình ống tròn; Trả lại cho bị cáo 1.700.000 đồng (trong tổng số tiền 6.300.000 đồng bị thu giữ) và 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Trần Hiếu N;

Trả lại cho ông Trần Văn C 01 đầu ghi camera; Trả lại cho bà Nguyễn Thị Hồng T 01 xe mô tô biển số 71B2-481.77 cùng giấy đăng ký xe mang tên Nguyễn Thị Hồng T; Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì số 17N/2020 và 17T/2020 chứa chất ma túy còn lại sau giám định, 50 túi nylon rỗng, 01 (Một) dĩa màu trắng bằng sành (sứ), hình tròn và 02 sim điện thoại di động.

Bị cáo Trần Hiếu N khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung bản cáo trạng truy tố, đồng thời yêu cầu xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Hồng T trình bày: Bà là chủ sở hữu xe mô tô biển số 71B2-481.77, bà cho bị cáo mượn sử dụng và không biết bị cáo sử dụng đi mua bán ma túy nên đề nghị được nhận lại chiếc xe mô tô trên cùng giấy đăng ký xe.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên sơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần VănC, Phạm Thị T, người làm chứng Phạm Đình Minh H, Nguyễn Thị Bích Ng vắng mặt. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra đã có lời khai rõ ràng nên sự vắng mặt của họ không trở ngại cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng theo quy định tại khoản 1 Điều 292 và khoản 1 Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Hiếu N tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, làm chứng, người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản ảnh quả tang, tang vật thu giữ, kết luận giám định về chất ma túy và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra có đủ cơ sở xác định: Trong đêm 21 và rạng sáng ngày 22 tháng 02 năm 2020, để có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng, Trần Hiếu N đã 03 lần bán ma túy cho Phạm Thị T và Nguyễn Thị Bích Ng tại phòng 204 và 205, quán karaoke B thuộc khu phố B, Phường S, thành phố BT, tỉnh Bến Tre, cụ thể: Bán cho Nguyễn Thị Bích Ng 01 lần 04 viên ma túy dạng “thuốc lắc” và 01 chấm ma túy dạng “khây” thu 1.900.000 đồng, bán cho Phạm Thị T 02 lần 03 viên ma túy dạng “thuốc lắc” và 02 chấm ma túy dạng “khây” thu 2.700.000 đồng. Vào khoảng 00 giờ 05 phút ngày 22/02/2020, khi H vừa giao ma túy cho T trước phòng 205 quán karaoke B thì bị bắt quả tang thu giữ ma túy trong người T và số ma túy còn lại sau khi bán cho T Hiếu vứt xuống nền gạch. Kết quả giám định xác định chất màu trắng bị thu giữ trong người T là ma túy, loại Ketamine, khối lượng 0,1389 gam, đây là số ma túy T vừa mua của H; 03 viên nén màu hồng bị thu giữ dưới nền gạch là ma túy, loại MDMA, khối lượng 1,5308 gam, đây là số ma túy H đem theo bán cho T nhưng do T không đủ tiền nên không lấy.

[4] Bị cáo Trần Hiếu N là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đã 03 lần bán 07 viên ma túy dạng “thuốc lắc” và 03 chấm ma túy dạng “khây”cho nhiều người nghiện để thu lợi bất chính nhằm phục vụ cho việc tiêu xài cá nhân và ma túy sử dụng, đã xâm phạm đến các quy định về phòng, chống và kiểm soát chất ma túy của Nhà nước được pháp luật hình sự bảo vệ. Vì vậy, hành vi của bị cáo Trần Hiếu N đã phạm vào “Tội mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên”theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[5] Tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, gây tác hại cho sức khỏe, tinh thần, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia, là nguyên nhân chính dẫn đến các tệ nạn xã hội khác. Để phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh có hiệu quả với tệ nạn ma túy cần phải xử lý nghiêm các hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển…trái phép chất ma túy theo quy định của pháp luật.

[6] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thấy rằng: Mặc dù nhân thân của bị cáo được xác định là không có tiền án, tiền sự, nhưng qua xem xét quá trình hoạt động của bản thân cho thấy bị cáo đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi vận chuyển hàng cấm. Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo không phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng như: khi bị bắt quả tang, bị cáo đã tự thú hành vi bán ma túy cho Ng trong khi cơ quan điều tra chưa phát hiện; trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, cha của bị cáo được Nhà nước tặng Bằng khen do đã góp phần vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi bị cáo gây ra, xét thấy việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là điều cần thiết nhằm cải tạo giáo dục bị cáo trở thành công dân lương thiện có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung.

[7] Lời phát biểu luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ và hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Đối với các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm r khoản 1 và khoản 2 Điều 51 mà Kiểm sát viên không đề nghị là thiếu sót, bởi lẽ theo biên bản bắt người phạm tội quả tang bị cáo đã khai hành vi bán ma túy cho Ng và căn cứ vào lời khai nhận của bị cáo, Cơ quan điều tra đã kiểm tra, khám xét phòng 204 và lập biên bản đối với Ng nên hành vi của bị cáo là đã tự thú khai nhận hành vi bán ma túy cho Ng khi Cơ quan điều tra chưa phát hiện, đồng thời cha bị cáo được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tặng Bằng khen nên áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự bổ sung cho phù hợp.

[8] Hình phạt bổ sung: Xét về tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên việc áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo là không cần thiết nên không áp dụng.

[9] Về phần xử lý vật chứng:

Vật chứng của vụ án hiện đang thu giữ, bao gồm: 01 phong bì niêm phong ký hiệu 17N/2020/GĐMT bên trong có 01 túi nylon hàn kín ba phía, phía còn lại có rãnh khép và vạch màu đỏ, bên trong có 03 viên nén màu hồng, hình tam giác; 01 phong bì niêm phong ký hiệu 17T/2020/GĐMT bên trong có 01 túi nylon hàn kín ba phía, phía còn lại có rãnh khép và vạch màu xanh có chứa tinh thể màu trắng; 50 túi nylon rỗng; 01 dĩa màu trắng bằng sành (sứ), hình tròn; 01 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng được cuộn tròn thành hình ống tròn; số tiền 6.300.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu ITEL màu đỏ, có số IMEI 1: 358625101428680, số IMEI 2:358625101428698 có gắn sim số 0587281139; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng, số IMEI 1: 354021083221786/0, số IMEI 2: 354021083221784/01 có gắn sim số 0787892034, trên sim có dãy số 8401180892458436; 01 chứng minh nhân dân mang tên Trần Hiếu N; 01 xe môt tô nhãn hiệu YAMAHA loại SIRIUS màu đen xám, biển số 71B2-481.77 số khung: RLCS1FC40FY029557, số máy: 1FC4029546 cùng 01 giấy đăng ký xe mô tô mang tên Nguyễn Thị Hồng T; 01 đầu ghi camera hiệu Keeper.

Xét thấy, chất ma túy còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành và 50 túi nylon rỗng, 01 dĩa màu trắng bằng sành (sứ), hình tròn là dụng cụ sử dụng ma túy hiện không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu ITEL màu đỏ, có số IMEI 1: 358625101428680, số IMEI 2: 358625101428698; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng, số IMEI 1: 354021083221786/0, số IMEI 2: 354021083221784/01 là tài sản của bị cáo và bà T nhưng bị cáo và bà T đã sử dụng vào việc liên lạc mua bán ma túy nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước. Đối với số tiền 6.300.000 đồng và 01 chứng minh nhân dân mang tên Trần Hiếu N, trong đó có 4.600.000 đồng là tiền do bị cáo bán ma túy cho chị T và chị Ng nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước, số tiền còn lại là 1.700.000 đồng là tiền của bị cáo và 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Trần Hiếu N không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo. Đối với 01 xe môt tô nhãn hiệu YAMAHA loại SIRIUS màu đen xám, biển số 71B2-481.77 số khung: RLCS1FC40FY029557, số máy: 1FC4029546 cùng 01 giấy đăng ký xe mô tô mang tên Nguyễn Thị Hồng Thlà tài sản thuộc quyền sở hữu của bà Nguyễn Thị Hồng T, bà T không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên trả tài sản trên lại cho bà T.

Đi với 01 đầu ghi camera hiệu Keeper là tài sản của ông Trần Văn C không liên quan đến vụ án nên trả lại cho ông C. Đối với 01 sim số 0787892034, trên sim có dãy số 8401180892458436 và 01 sim số 0587281139 là sim của bị cáo và bà T, bị cáo và bà T đã sử dụng để liên lạc mua bán ma túy và hiện không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng được cuộn tròn thành hình ống tròn là công cụ để sử dụng chất ma túy nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[10] Đối với những lần bị cáo khai bán ma túy cho T, Ng và nhiều người khác nhưng không nhớ rõ thời gian, địa điểm, số lượng, loại ma túy nên kiến nghị Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ và xử lý sau.

[11] Đối với Phạm Thị T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên không truy cứu trách nhiệm hình sự mà xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

[12] Về án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Trần Hiếu N phải nộp theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Hiếu N phạm “Tội mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo: Trần Hiếu N 07 (Bảy) năm 3 (Ba) tháng tù;

Thời hạn tù tính từ ngày 22/02/2020.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (Một) phong bì niêm phong ký hiệu 17N/2020/GĐMT bên trong có 01 túi nylon hàn kín ba phía, phía còn lại có rãnh khép và vạch màu đỏ, bên trong có 03 viên nén màu hồng, hình tam giác;

+ 01 (Một) phong bì niêm phong ký hiệu 17T/2020/GĐMT bên trong có 01 túi nylon hàn kín ba phía, phía còn lại có rãnh khép và vạch màu xanh có chứa tinh thể màu trắng;

+ 50 (Năm mươi) túi nylon rỗng;

+ 01 (Một) dĩa màu trắng bằng sành (sứ), hình tròn;

+ 01 (Một) sim số 0787892034, trên sim có dãy số 8401180892458436 và 01 (Một) sim số 0587281139.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước:

+ 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu ITEL màu đỏ, có số IMEI 1:

358625101428680, số IMEI 2: 358625101428698;

+ 01 (Một) điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng, số IMEI 1:

354021083221786/0, số IMEI 2: 354021083221784/01;

+ Tiền Việt Nam 4.600.000 (Bốn triệu sáu trăm nghìn) đồng (trong tổng số tiền 6.300.000 đồng thu giữ);

+ 01 (Một) tờ tiền mệnh giá 5.000 (Năm nghìn) đồng được cuộn tròn thành hình ống tròn.

- Trả lại cho bị cáo Trần Hiếu N: 1.700.000 (Một triệu, bảy trăm nghìn) đồng (trong tổng số tiền 6.300.000 đồng thu giữ) và 01 (Một) giấy chứng minh nhân dân mang tên Trần Hiếu N.

- Trả lại cho bà Nguyễn Thị Hồng T: 01 (Một) xe môt tô nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS, màu đen xám, biển số 71B2-481.77, số khung: RLCS1FC40FY029557, số máy: 1FC4029546 cùng 01 (Một) giấy đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Nguyễn Thị Hồng T.

- Trả lại cho ông Trần Văn C 01 (Một) đầu ghi camera hiệu Keeper.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/8/2020, hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Tre quản lý) 3. Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Trần Hiếu N phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2020/HS-ST ngày 21/08/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:62/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về