Bản án 62/2019/HS-ST ngày 17/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 62/2019/HS-ST NGÀY 17/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 17 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 65/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Lường Đức A, sinh năm 1986, tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản Chiềng P, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn C và bà Lường Thị H; bị cáo có vợ là Lò Thị T và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 23/10/2003 Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt 10 năm tù, về tội Hiếp dâm trẻ em (đã được xóa án tích); Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/01/2019 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 20 giờ 00 phút ngày 11/01/2019, tổ công tác Công an huyện M làm nhiệm vụ tại khu vực tiểu khu 70, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La, qua kiểm tra hành chính về ma túy với Lường Đức A đã phát hiện Lường Đức A đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ 01 gói nilon màu đen, tiếp đến là lớp nilon màu trắng, bên trong đựng 18 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY, Lường Đức A khai là Methamphetamine cất giữ nhằm mục đích để sử dụng.

Tổ công tác đã lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng dẫn giải Lường Đức A về Công an huyện M để điều tra làm rõ.

Ngày 12/01/2019 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M phối hợp với VKSND huyện M và Phòng Kỹ Thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định số lượng, khối lượng số ma túy của Lường Đức A, kết quả: 01 gói nilon màu đen, tiếp đến là lớp nilon màu trắng, bên trong đựng 18 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY thu giữ Lường Đức A có khối lượng 1,88 gam, lấy 08 viên có khối lượng 0,84 gam làm mẫu giám định ký hiệu “A”. Cơ quan Công an huyện M ra quyết định trưng cầu giám định chất ma túy và loại ma túy.

Tại kết luận giám định số: 244 ngày 15/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu A là ma túy, loại chất Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,84 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 1,88 gam; loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra Lường Đức A khai nhận: Khoảng 18 giờ ngày 11/01/2019, Lường Đức A đang ở nhà mẹ vợ tại bản N 2, xã M, huyện M thì nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng. Sau đó A thuê xe ôm của một người đàn ông không quen biết đến bản C, xã Đ, huyện M, khi A đến đầu bản Co Sung thì xuống xe và bảo người đàn ông lái xe ôm đứng chờ, còn A một mình đi bộ vào trong bản C thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết đang đứng ở lề đường, A hỏi và mua được 01 gói nilon màu đen, tiếp đến là lớp nilon màu trắng, bên trong đựng 18 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY là Methamphetamine với giá 1.000.000đ, sau khi mua được Methamphetamine A cất giấu vào túi áo khoác bên trái đang mặc rồi đi bộ đến chỗ người lái xe ôm đang đứng chờ rồi tiếp tục đi xe ôm đến khu vực ngã ba khách sạn T thuộc tiểu khu 70, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La để tìm nơi sử dụng ma túy. Khi đến ngã ba khách sạn T, A vào cửa hàng tạp hóa của gia đình anh Nguyễn Hồng T, sinh năm 1966, trú tại: Tiểu khu 70, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La ngồi uống nước, đến khoảng 19 giờ 50 phút cùng ngày khi A đang ngồi uống nước thì bị tổ công tác Công an huyện M phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Bản cáo trạng số: 65/CT-VKSMC ngày 05 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Lường Đức A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M giữ nguyên quan điểm truy tố Lường Đức A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố Lường Đức A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Lường Đức A từ 24 tháng đến 30 tháng tù;

Không áp dụng hình phạt bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 1,04 gam Methamphetamine cùng với vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 01 test thử ma túy của Lường Đức A.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà bị cáo Lường Đức A thừa nhận: Hồi 20 giờ 00 phút ngày 11/01/2019 Lường Đức A đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 01 gói Methamphetamine có khối lượng 1,88 gam, với mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Kết luận giám định.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Lường Đức A đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do vậy cần xem xét cân nhắc xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo. Việc cách ly bị cáo một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có thể đảm bảo được điều kiện và thời gian để bị cáo cải tạo, giáo dục trở thành người tốt có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa giáo dục chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2003 bị cáo Lường Đức A bị Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La đã xử phạt 10 năm tù về tội Hiếp dâm trẻ em, đã được xóa án tích. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và xét hỏi tại phiên tòa thấy rằng bị cáo không có tài sản nên không phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo theo quy định của khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Đối với 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Lường Đức A, bắt ngày 11/01/2019: Bên trong đựng 10 viên nén màu hồng = 1,04 gam Methamphetamine cùng với vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Lường Đức A. SN:1986. Trú tại bản Chiềng Pằn, xã Chiềng Hắc, huyện M, tỉnh Sơn La, KQ: Dương tính, ngày 11/01/2019, bên trong đựng 01 test thử ma túy của Lường Đức A, là vật Nhà nước cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo như bị cáo khai. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này do đó không có căn cứ để điều tra xử lý.

Đối với người đàn ông lái xe ôm chở bị cáo đi mua ma túy và tìm nơi sử dụng. Quá trình điều tra Lường Đức A khai nhận không biết tên, tuổi, địa chỉ, biển kiểm soát xe của người lái xe ôm này và việc bị cáo Lường Đức A tàng trữ trái phép chất ma túy người lái xe ôm hoàn toàn không biết, do đó không có căn cứ để điều tra xử lý.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Pháp luật.

[7] Xét thấy thời hạn tạm giam của bị cáo còn trên 45 ngày, Hội đồng xét xử không ra quyết định tạm giam đối với bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lường Đức A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lường Đức A 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 12/01/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Lường Đức A, bắt ngày 11/01/2019: Bên trong đựng 10 viên nén màu hồng = 1,04 gam Methamphetamine cùng với vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Lường Đức A. SN:1986. Trú tại bản Chiềng Pằn, xã Chiềng Hắc, huyện M, tỉnh Sơn La, KQ: Dương tính, ngày 11/01/2019, bên trong đựng 01 test thử ma túy của Lường Đức A.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Lường Đức A phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 17/4/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/HS-ST ngày 17/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:62/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về